TRONG TRƯỜNG HỢP PHÁT HIỆN TIỀN TỪ THIỆN BỊ SỬ DỤNG SAI MỤC ĐÍCH, NGƯỜI ỦNG HỘ CÓ THỂ ĐÒI LẠI SỐ TIỀN QUYÊN GÓP HAY KHÔNG?

Nội dung bài viết

Luật sư Thanh Hà, Chủ tịch SB LAW trả lời đài truyền hình Hà Nội.

1. Việc các cá nhân gây quỹ từ thiện tự phát thời gian vừa qua khi huy động 1 số tiền rất lớn từ các nhà hảo tâm thì sẽ phải có trách nhiệm gì trong việc công bố thông tin, thưa ông?

Trả lời:

Việc các cá nhân tự phát gây quỹ từ thiện, đặc biệt khi huy động một số tiền lớn từ các nhà hảo tâm, sẽ phải tuân thủ những quy định rất rõ ràng về công khai thông tin để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm đối với cộng đồng.

  • Về các hình thức công khai:

Điều 14 Nghị định 93/2021/NĐ-CP quy định cụ thể về các nội dung cần công khai bao gồm: Văn bản kêu gọi đóng góp tự nguyện, kết quả vận động, đối tượng và chính sách hỗ trợ, thông tin về việc tiếp nhận đóng góp gồm thời gian, địa điểm và cách thức tiếp nhận tiền, hiện vật đóng góp tự nguyện.

Sẽ có 3 hình thức công khai đã được quy định là: Công khai trên trang thông tin điện tử chính thức của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Tiếp theo là niêm yết thông tin tại trụ sở làm việc của tổ chức, cơ quan, đơn vị và các địa điểm sinh hoạt cộng đồng như thôn, ấp, bản, buôn, sóc, tổ dân phố. Cuối cùng thông báo bằng văn bản đến các cơ quan liên quan và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Ít nhất một trong ba hình thức trên cần được thực hiện, và bắt buộc phải công khai trên trang thông tin điện tử chính thức của tổ chức, cơ quan, đơn vị. Nếu chưa có trang thông tin điện tử, thông tin phải được niêm yết tại trụ sở làm việc.

  • Về thời điểm công khai:

Các văn bản về việc kêu gọi đóng góp tự nguyện phải được công khai ngay sau khi ban hành.

Thông tin về thời gian, địa điểm và cách thức tiếp nhận đóng góp cần được công khai trước từ 1 đến 3 ngày khi bắt đầu tổ chức thực hiện.

Kết quả vận động, tiếp nhận và phân phối nguồn đóng góp tự nguyện cần được công khai tổng số tiền và hiện vật đã vận động, tiếp nhận trong vòng 15 ngày kể từ khi kết thúc thời gian tiếp nhận; công khai tổng số tiền và hiện vật đã phân phối, sử dụng trong vòng 30 ngày sau khi kết thúc thời gian phân phối, sử dụng.

Các thông tin về đối tượng hỗ trợ, chính sách và mức hỗ trợ phải được công khai ngay từ khi bắt đầu thực hiện hỗ trợ, phân phối nguồn đóng góp.

  • Về thời gian công khai:

Thông tin cần được niêm yết công khai tại trụ sở tổ chức, cơ quan, đơn vị, các điểm sinh hoạt cộng đồng và công khai trên trang thông tin điện tử trong ít nhất 30 ngày. Đồng thời, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng cần được thực hiện ít nhất trong 3 số liên tiếp trên báo chí, hoặc 3 ngày liên tiếp trên chương trình của đài phát thanh, đài truyền hình.

hình ảnh Phạm Thoại tiến hành sao kê trên sóng Livestream.

Hình ảnh Phạm Thoại tiến hành sao kê trên sóng Livestream.

2. Nghị định 93/2021 đã quy định những hành vi bị nghiêm cấm khi kêu gọi ủng hộ từ thiện. Nhưng nếu sử dụng tiền từ thiện sai mục đích thì có phải hành vi phạm tội không, có những biện pháp xử lý như thế nào?

Trả lời:

Quy định về những hành vi bị nghiêm cấm khi kêu gọi ủng hộ từ thiện trong Nghị định 93/2021/NĐ-CP được ghi nhận tại Điều 5, theo đó, các hành vi này bao gồm:

  • Cản trở hoặc ép buộc tổ chức, cá nhân tham gia vận động, đóng góp, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện.
  • Báo cáo, cung cấp thông tin không đúng sự thật; chiếm đoạt; phân phối, sử dụng sai mục đích, không đúng thời gian phân phối, đối tượng được hỗ trợ từ nguồn đóng góp tự nguyện.
  • Lợi dụng công tác vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng nguồn đóng góp tự nguyện để trục lợi hoặc thực hiện các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Việc sử dụng tiền từ thiện sai mục đích chưa chắc đã là hành vi phạm tội bởi: Chỉ khi nào xác định người kêu gọi từ thiện có hành vi “chiếm” và “đoạt”, tiếp đến chính là thủ đoạn gian dối khi người kêu gọi từ thiện có động cơ gian dối trong việc nhận tiền từ thiện từ cá nhân, tổ chức khác.

Nếu một cá nhân hoặc tổ chức quyên góp nhưng không sử dụng số tiền thu được cho mục đích đã cam kết, hoặc trục lợi cá nhân từ khoản tiền quyên góp này, họ có thể bị cáo buộc lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015. Nếu đủ căn cứ chứng minh hành vi lừa đảo, người tổ chức có thể bị xử lý hình sự với mức án tù từ 06 tháng đến 03 năm. Nếu số tiền chiếm đoạt lớn trên 500 triệu đồng, mức phạt tù có thể lên đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Nếu không thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người kêu gọi từ thiện và sử dụng số tiền từ thiện sai với mục đích sẽ bị xử phạt hành chính cụ thể:

Nghị định 130/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em:

“Điều 10. Vi phạm quy định về quản lý tiền, hàng cứu trợ

  1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
  2. a) Để hư hỏng, thất thoát tiền, hàng cứu trợ, trừ trường hợp bất khả kháng do thiên tai, hỏa hoạn;
  3. b) Sử dụng, phân phối tiền, hàng cứu trợ không đúng mục đích, không đúng đối tượng;
  4. c) Tráo đổi hàng cứu trợ.

Tóm lại, tùy vào mức độ nghiêm trọng của hành vi mà đối tượng vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

3. Trong trường hợp phát hiện tiền từ thiện bị sử dụng sai mục đích, người ủng hộ có thể đòi lại số tiền quyên góp hay không, thưa ông?

Trả lời:

Đây là một vấn đề nhận được rất nhiều sự quan tâm trong thời gian qua, đặc biệt khi có nhiều cá nhân, tổ chức kêu gọi từ thiện nhưng lại bị phản ánh về việc sử dụng tiền không minh bạch. Về mặt pháp lý, việc đòi lại số tiền quyên góp phụ thuộc vào bản chất của giao dịch giữa người ủng hộ và bên nhận tiền.

Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng khi một cá nhân hoặc tổ chức đóng góp tiền từ thiện, thì về nguyên tắc, đây là một hành vi tặng cho tài sản có mục đích. Người quyên góp không phải là nhà đầu tư, họ không chuyển tiền để nhận lại một khoản lợi ích, mà vì mục tiêu giúp đỡ cộng đồng. Tuy nhiên, điều quan trọng là mục đích sử dụng số tiền này phải đúng với cam kết ban đầu. Nếu người tiếp nhận tiền sử dụng sai mục đích, thì có thể xem xét đến trách nhiệm pháp lý và khả năng đòi lại tiền.

Về quyền đòi lại tiền từ thiện, có thể chia thành hai trường hợp như sau:

  • Trường hợp có cam kết rõ ràng về mục đích sử dụng:

Nếu ngay từ đầu, người tiếp nhận nhận tiền từ thiện công khai mục đích sử dụng thì họ có nghĩa vụ phải thực hiện đúng cam kết. Trong trường hợp họ sử dụng sai mục đích, ví dụ như hứa hỗ trợ đồng bào vùng lũ nhưng lại chi tiêu cá nhân hoặc đầu tư vào hoạt động khác, thì đây có thể được coi là hành vi vi phạm thỏa thuận.

Khi đó, người ủng hộ có quyền yêu cầu bên tiếp nhận hoàn trả số tiền đã quyên góp. Nếu bên nhận không tự nguyện hoàn trả, người ủng hộ có thể khởi kiện dân sự tại tòa án để yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu do vi phạm cam kết, từ đó buộc hoàn lại tiền.

  • Trường hợp không có thỏa thuận rõ ràng, hoặc người ủng hộ quyên góp tự nguyện không điều kiện

Trong nhiều trường hợp, việc quyên góp mang tính tự nguyện mà không có điều kiện ràng buộc về mục đích sử dụng. Theo quy định của pháp luật dân sự, nếu một cá nhân tự nguyện tặng cho tài sản mà không đặt ra điều kiện rõ ràng, thì khi tài sản đã được chuyển giao, họ không có quyền đòi lại.

Tuy nhiên, nếu người kêu gọi từ thiện có dấu hiệu gian dối ngay từ đầu, chẳng hạn như cố tình đưa ra thông tin sai sự thật để huy động tiền nhưng không có ý định thực hiện mục đích từ thiện, thì hành vi này có thể bị xem xét xử lý theo Điều 174 Bộ luật Hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc Điều 175 về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, người ủng hộ có thể tố cáo đến cơ quan chức năng để yêu cầu điều tra và thu hồi số tiền bị chiếm đoạt.

Những biện pháp pháp lý có thể thực hiện

Nếu phát hiện tiền từ thiện bị sử dụng sai mục đích, người ủng hộ có thể thực hiện các bước sau:

  • Trước tiên, người ủng hộ có thể yêu cầu cá nhân/tổ chức nhận tiền công khai việc sử dụng quỹ theo đúng cam kết ban đầu.
  • Nếu bên nhận từ chối cung cấp thông tin hoặc có dấu hiệu khuất tất, người ủng hộ có thể gửi đơn khiếu nại đến cơ quan quản lý nhà nước như Ủy ban Nhân dân, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc thanh tra tài chính.
  • Nếu có dấu hiệu gian dối, chiếm đoạt tài sản, người ủng hộ có thể tố cáo đến cơ quan công an để điều tra hình sự hoặc khởi kiện dân sự yêu cầu hoàn trả tiền.

Như vậy, việc đòi lại tiền quyên góp không phải lúc nào cũng dễ dàng, mà còn phụ thuộc vào cách thức huy động và sử dụng số tiền đó. Nếu có cam kết rõ ràng nhưng bị vi phạm, người ủng hộ có cơ sở pháp lý để yêu cầu hoàn trả. Ngược lại, nếu việc quyên góp hoàn toàn tự nguyện mà không có điều kiện ràng buộc, thì rất khó để đòi lại tiền, trừ khi có dấu hiệu lừa đảo. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi của mình, người ủng hộ nên tìm hiểu kỹ về người kêu gọi từ thiện, yêu cầu sự minh bạch ngay từ đầu, và nếu có nghi ngờ, cần liên hệ với cơ quan chức năng để được hỗ trợ.

0/5 (0 Reviews)

Bài viết liên quan