Luật Dữ liệu do Bộ Công an xây dựng đã được Quốc hội bỏ phiếu thông qua với 05 chương với 46 điều, quy định về dữ liệu số; xây dựng, phát triển, bảo vệ, quản trị, xử lý, sử dụng dữ liệu số; Trung tâm dữ liệu quốc gia; Cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia; sản phẩm, dịch vụ về dữ liệu số; quản lý về dữ liệu số; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động về dữ liệu số.
Thưa Luật sư Nguyễn Thanh Hà, ông đánh giá ra sao về ý nghĩa của việc Quốc hội thông qua Luật Dữ liệu, nhất là trong bối cảnh đất nước và thế giới hiện nay?
Việc Quốc hội thông qua Luật Dữ liệu đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý cho nền kinh tế số tại Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ. Luật Dữ liệu không chỉ tạo ra một hành lang pháp lý toàn diện để điều chỉnh các hoạt động như thu thập, xử lý, lưu trữ, và bảo vệ dữ liệu, mà còn định hướng phát triển hạ tầng chiến lược thông qua việc xây dựng Trung tâm Dữ liệu quốc gia và Cơ sở Dữ liệu tổng hợp quốc gia. Những nền tảng này sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, kết nối và khai thác dữ liệu một cách hiệu quả, tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia và hỗ trợ quá trình chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực.
Trước hết, Luật Dữ liệu đặt nền tảng pháp lý cho việc quản lý, thu thập và khai thác dữ liệu một cách đồng bộ, minh bạch và có trách nhiệm. Việc lập cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia sẽ giúp tích hợp các nguồn dữ liệu từ nhiều lĩnh vực khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chia sẻ và sử dụng dữ liệu giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân. Điều này không chỉ giảm thiểu tình trạng dữ liệu bị phân tán, trùng lặp, mà còn góp phần tối ưu hóa nguồn lực và thúc đẩy quá trình ra quyết định dựa trên dữ liệu.
Thứ hai, cơ sở dữ liệu quốc gia sẽ mang lại lợi ích to lớn cho người dân và doanh nghiệp. Khi dữ liệu được công khai và sử dụng hiệu quả, người dân có thể dễ dàng tiếp cận thông tin để phục vụ cuộc sống hàng ngày, như trong lĩnh vực giáo dục, y tế, giao thông hoặc tài chính. Đối với doanh nghiệp, việc tiếp cận nguồn dữ liệu chính xác và minh bạch sẽ giúp họ nâng cao khả năng cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, Luật Dữ liệu còn đặt trọng tâm vào việc bảo vệ quyền riêng tư và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tạo lòng tin vững chắc cho người dân và doanh nghiệp trong môi trường số. Những quy định về quản trị và an ninh dữ liệu giúp Nhà nước tăng cường hiệu quả quản lý, giảm thiểu rủi ro về bảo mật thông tin trong không gian mạng. Hơn nữa, việc ban hành Luật Dữ liệu cũng thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập với các chuẩn mực quốc tế, từ đó tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc triển khai Luật Dữ liệu không hề đơn giản. Các thách thức lớn bao gồm việc bảo đảm an ninh mạng, bảo vệ quyền riêng tư của người dân và xử lý các vấn đề liên quan đến bản quyền dữ liệu. Đồng thời, cần có cơ chế rõ ràng để phân định trách nhiệm và quyền hạn giữa các cơ quan quản lý dữ liệu, tránh tình trạng lạm dụng hoặc khai thác sai mục đích.
Như vậy, việc thông qua Luật Dữ liệu là một bước tiến quan trọng, nhưng để hiện thực hóa các mục tiêu của luật, chúng ta cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về cả cơ sở hạ tầng công nghệ lẫn năng lực pháp lý, quản lý. Hy vọng rằng, khi Luật chính thức có hiệu lực vào năm 2025, nó sẽ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế số và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân.
Vâng, khi Luật Dữ liệu được chính thức đi vào thực tiễn thì lợi ích mang lại cho tổ chức, cá nhân và các doanh nghiệp cụ thể sẽ là gì, thưa ông?
Khi Luật Dữ liệu chính thức đi vào thực tiễn, nó sẽ mang lại những lợi ích to lớn và sâu rộng cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức và xã hội. Những lợi ích này được cụ thể hóa qua các nội dung sau đây:
Thứ nhất, đối với cá nhân, Luật Dữ liệu đảm bảo quyền lợi và an toàn thông tin của mỗi người dân thông qua các quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân. Người dân sẽ được bảo vệ trước nguy cơ lộ, lọt hoặc lạm dụng thông tin cá nhân. Cụ thể, theo các quy định trong Luật, cá nhân có quyền kiểm soát dữ liệu của mình, yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung hoặc xóa thông tin nếu phát hiện sai lệch hoặc không còn phù hợp. Đồng thời, các cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm đảm bảo tính bảo mật và an toàn cho dữ liệu cá nhân trong quá trình thu thập, lưu trữ và sử dụng. Nhờ đó, người dân có thể yên tâm khi thực hiện các giao dịch số hoặc tương tác với các nền tảng công nghệ. Ngoài ra, việc số hóa dữ liệu còn giúp cải thiện dịch vụ công, như cấp giấy tờ, khám chữa bệnh hay giáo dục, mang lại sự tiện lợi, nhanh chóng và tiết kiệm thời gian cho người dân.
Thứ hai, đối với doanh nghiệp, Luật Dữ liệu tạo ra một môi trường pháp lý minh bạch, giúp doanh nghiệp khai thác hiệu quả tiềm năng của dữ liệu trong hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp được quyền tiếp cận nguồn dữ liệu chất lượng cao từ các cơ sở dữ liệu quốc gia, giảm chi phí thu thập và xử lý thông tin, đồng thời tăng cường khả năng phân tích dữ liệu để đưa ra các quyết định chiến lược. Điều này đặc biệt hữu ích cho các lĩnh vực như thương mại điện tử, tài chính, công nghệ và y tế, nơi dữ liệu đóng vai trò cốt lõi trong việc phát triển sản phẩm và dịch vụ. Ngoài ra, Luật còn khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào thị trường dữ liệu một cách hợp pháp, minh bạch, thông qua việc chia sẻ, mua bán và sử dụng dữ liệu để tạo giá trị kinh tế. Bên cạnh đó, Luật cũng bảo vệ doanh nghiệp khỏi các rủi ro pháp lý liên quan đến việc thu thập hoặc sử dụng dữ liệu trái phép, từ đó thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh và bền vững trong nền kinh tế số.
Thứ ba, đối với các tổ chức và cơ quan nhà nước, Luật Dữ liệu giúp nâng cao hiệu quả quản lý và cung cấp dịch vụ công. Dữ liệu được số hóa và tập trung sẽ hỗ trợ các cơ quan nhà nước đưa ra các quyết định chính sách dựa trên thông tin đầy đủ và chính xác hơn, từ đó nâng cao năng lực quản trị và điều hành. Đồng thời, các dịch vụ công như cấp giấy tờ, đăng ký, hay quản lý hành chính cũng sẽ trở nên minh bạch, nhanh chóng và hiệu quả hơn nhờ vào việc ứng dụng dữ liệu số. Một lợi ích khác là việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong chia sẻ và sử dụng dữ liệu, giúp giảm thiểu tình trạng trùng lặp, lãng phí nguồn lực và nâng cao chất lượng phục vụ người dân. Ngoài ra, Luật cũng góp phần tăng cường an ninh và trật tự xã hội, bởi cơ sở dữ liệu tổng hợp quốc gia sẽ hỗ trợ các cơ quan chức năng trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là các tội phạm công nghệ cao.
Thứ tư, đối với xã hội và nền kinh tế, Luật Dữ liệu thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số và đóng góp vào sự tiến bộ của toàn xã hội. Thông qua việc quản lý và khai thác dữ liệu hiệu quả, các ngành nghề sẽ tiết kiệm được nguồn lực, giảm lãng phí và nâng cao năng suất lao động. Thị trường dữ liệu, được hình thành và phát triển dưới sự bảo vệ của Luật, không chỉ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo mà còn tạo ra giá trị kinh tế lớn từ việc chia sẻ và sử dụng dữ liệu. Ngoài ra, Luật Dữ liệu còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đầu tư và hội nhập quốc tế, khi Việt Nam xây dựng được một khung pháp lý minh bạch, an toàn và phù hợp với các tiêu chuẩn toàn cầu. Điều này không chỉ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài mà còn nâng cao vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế số toàn cầu.
Như vậy, Luật Dữ liệu không chỉ mang lại những lợi ích trực tiếp cho cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức mà còn góp phần xây dựng một xã hội số hóa an toàn, minh bạch và hiệu quả. Đây là một bước tiến quan trọng trong hành trình chuyển đổi số của Việt Nam, mở ra nhiều cơ hội phát triển bền vững cho cả nền kinh tế và cộng đồng.
Ông có thể chia sẻ để quý thính giả hiểu rõ hơn về khái niệm “Dữ liệu” được quy định cụ thể trong luật là gì?
Theo quy định tại Luật Dữ liệu về Giải thích từ ngữ, “Dữ liệu” là sự thể hiện dưới dạng kỹ thuật số của hành vi, sự vật, sự kiện, thông tin, bao gồm dạng âm thanh, hình ảnh, chữ số, chữ viết, ký hiệu hoặc dạng tương tự khác.
Luật cũng phân loại dữ liệu thành nhiều nhóm cụ thể, bao gồm:
- Dữ liệu phi cá nhân là dữ liệu không gắn liền với một con người cụ thể hoặc không giúp xác định một con người cụ thể.
- Dữ liệu dùng chung là dữ liệu được khai thác, sử dụng chung trong các cơ quan nhà nước, gồm: Dữ liệu chủ trong cơ sở dữ liệu quốc gia; dữ liệu chủ trong cơ sở dữ liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; dữ liệu danh mục dùng chung; dữ liệu khác được từ tối thiểu hai cơ quan nhà nước khác nhau khai thác, sử dụng.
- Dữ liệu dùng riêng là dữ liệu được tiếp cận, khai thác, sử dụng trong phạm vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý.
- Dữ liệu mở là dữ liệu mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhu cầu đều được khai thác, sử dụng.
- Dữ liệu gốc là dữ liệu được tạo lập ban đầu tại chủ thể quản lý dữ liệu.
- Dữ liệu tổng hợp là dữ liệu được tạo lập với sự trợ giúp của các thuật toán từ các dữ liệu hiện có.
- Dữ liệu quan trọng là dữ liệu trong lĩnh vực, nhóm, khu vực có thể gây nguy hiểm trực tiếp đến an ninh quốc gia, hoạt động kinh tế, ổn định xã hội, sức khỏe và an toàn cộng đồng khi bị rò rỉ, giả mạo hoặc phá hủy.
- Dữ liệu cốt lõi là dữ liệu quan trọng có phạm vi bao phủ cao trên các lĩnh vực, nhóm, khu vực có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh chính trị khi sử dụng, chia sẻ trái phép. Dữ liệu cốt lõi bao gồm dữ liệu liên quan đến các lĩnh vực an ninh quốc gia quan trọng, dữ liệu liên quan đến huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, sinh kế quan trọng của người dân, các lợi ích công cộng lớn và các dữ liệu khác được các cơ quan quốc gia
Như vậy, Điều đáng chú ý là Luật Dữ liệu không chỉ dừng lại ở việc định nghĩa khái niệm “dữ liệu”, mà còn đặt ra các quy định rõ ràng liên quan đến quá trình thu thập, lưu trữ, xử lý, bảo mật và khai thác dữ liệu. Điều này nhằm đảm bảo các hoạt động liên quan đến dữ liệu được thực hiện đúng quy định pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đồng thời tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Luật Dữ liệu được thông qua không chỉ được người dân trong nước và quốc tế cũng đặc biệt quan tâm tới những quy định cụ thể trong việc cung cấp dữ liệu cá nhân cho hệ thống dữ liệu dùng chung, nhất là những quy định về việc bảo mật thông tin cá nhân, Luật sư nói rõ hơn về điểm này?
Các điều khoản cụ thể liên quan đến bảo mật và xử lý dữ liệu cá nhân nằm rải rác tại các Mục trong Luật Dữ liệu, đặc biệt tại các Mục liên quan đến bảo mật, lưu trữ, và bảo vệ quyền lợi cá nhân, cụ thể ở một số điều như:
Quy định về Các hành vị bị nghiêm cấm
“1. Lợi dụng việc xử lý dữ liệu, quản trị dữ liệu xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Cản trở hoặc ngăn chặn trái pháp luật quá trình xử lý dữ liệu, quản trị dữ liệu hoặc có hành vi khác nhằm phá hoại hệ thống thông tin phục vụ xử lý dữ liệu.
3. Thu thập, cung cấp, sử dụng, truy cập, tiết lộ, hiển thị, phát tán, chia sẻ trái pháp luật dữ liệu.
4. Giả mạo, làm sai lệch hoặc xóa, hủy, sao chép, di chuyển trái pháp luật một phần hoặc toàn bộ dữ liệu.
5. Gian lận, chiếm đoạt hoặc sử dụng dữ liệu trái pháp luật.
6. Cố ý cung cấp thông tin sai lệch hoặc không cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật.
7. Kinh doanh, mua bán, trao đổi dữ liệu trái pháp luật.
8. Phát triển, kinh doanh, lưu hành sản phẩm, dịch vụ dữ liệu xâm phạm an ninh, quốc phòng, quyền riêng tư của cá nhân, thuần phong mỹ tục Việt Nam.”
Quy định về việc Kết nối, chia sẻ, điều phối dữ liệu
“1. Chia sẻ dữ liệu là việc chủ thể dữ liệu, chủ sở hữu dữ liệu, chủ quản dữ liệu cung cấp dữ liệu cho người dùng dữ liệu nhằm mục đích sử dụng chung hoặc riêng dữ liệu đó, dựa trên các thỏa thuận tự nguyện hoặc theo quy định pháp luật, bằng cách trực tiếp hoặc thông qua một bên trung gian.
…”
Quy định về Công khai dữ liệu
“...
4. Các dữ liệu không được phép công khai gồm: Dữ liệu cá nhân mà không được chủ thể dữ liệu đồng ý; dữ liệu là bí mật nhà nước; dữ liệu tác động đến quốc phòng, an ninh; dữ liệu nếu công khai sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, quan hệ quốc tế; đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.
5. Dữ liệu được công khai có điều kiện gồm:
a) Dữ liệu liên quan đến bí mật kinh doanh được công khai trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý;
b) Dữ liệu liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; dữ liệu liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý;
c) Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp dữ liệu liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này.”
Quy định về Bảo vệ dữ liệu
“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân thủ quy định của pháp luật về dữ liệu, pháp luật về giao dịch điện tử, pháp luật về an toàn thông tin mạng, pháp luật về an ninh mạng và quy định khác của pháp luật có liên quan khi xử lý dữ liệu.
2. Dữ liệu thuộc phạm vi bí mật nhà nước phải tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước và pháp luật về cơ yếu.
3. Việc bảo vệ dữ liệu cá nhân tuân thủ theo quy định của pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.”
Như vậy, Luật Dữ liệu đã đưa ra những quy định rất cụ thể và chặt chẽ nhằm đảm bảo quyền riêng tư của cá nhân khi cung cấp dữ liệu cho hệ thống dùng chung. Đây là một điểm tiến bộ, góp phần tạo niềm tin của người dân vào việc sử dụng dữ liệu để phục vụ cho sự phát triển chung của xã hội.
|