Cần chính sách thuế GTGT phân bón phù hợp để đạt mục đích kép

Nội dung bài viết

Theo Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch công ty luật SBLAW, phân bón chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) 5% sẽ giúp Nhà nước có cơ hội tăng thu ngân sách, doanh nghiệp sản xuất phân bón được khấu trừ thuế đầu vào, từ đó có điều kiện để hạ giá thành sản phẩm cho nông dân.

Về việc cân nhắc nên hay không áp thuế GTGT đối với mặt hàng phân bón, thiết bị máy móc ngành nông nghiệp, luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLAW cho rằng, việc áp thuế 5% sẽ giúp ổn định giá cả và bảo đảm sự cân bằng lợi ích giữa các bên liên quan, tuy nhiên cần cơ chế giám sát để tránh trục lợi chính sách.

PV: Ông nhận thấy những bất cập gì ở chính sách thuế GTGT của ngành phân bón, thiết bị, máy móc nông nghiệp hiện nay?

Luật sư Nguyễn Thanh Hà: Hiện nay, căn cứ theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 1.1.2015 (Luật Thuế 71), phân bón, thiết bị, máy móc nông nghiệp thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Chính sách này nhằm hỗ trợ và khuyến khích phát triển nông nghiệp, nhưng trên thực tế vẫn tồn tại một số bất cập và thách thức đối với ngành này.

Thứ nhất, ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, do phân bón và máy móc nông nghiệp không chịu thuế GTGT, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón, máy móc không được khấu trừ thuế đầu vào cho nguyên vật liệu, dịch vụ mua sắm liên quan. Điều này làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp vì họ vẫn phải chịu thuế cho các nguyên vật liệu đầu vào, nhưng không được hoàn thuế.

Thứ hai, bất cập cạnh tranh không công bằng, do các sản phẩm trong nước không chịu thuế GTGT nhưng không được khấu trừ đầu vào. Trong khi đó, hàng nhập khẩu từ các nước có thể được miễn thuế hoặc được hưởng các ưu đãi khác. Điều này tạo ra sự cạnh tranh không công bằng giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.

Thứ ba, bất cập hạn chế đầu tư, chính sách này không tạo động lực thu hút đầu tư vào sản xuất phân bón, thiết bị nông nghiệp trong nước, bởi các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc kiểm soát chi phí và lợi nhuận khi không được khấu trừ thuế.

Như vậy, việc chuyển phân bón và thiết bị, máy móc nông nghiệp sang đối tượng không chịu thuế GTGT có ý nghĩa hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhưng vẫn còn nhiều bất cập, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có những điều chỉnh phù hợp để thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển bền vững, cạnh tranh công bằng hơn và giảm gánh nặng cho doanh nghiệp.

Bất cập lớn nhất là các mặt hàng phân bón, thiết bị, máy móc nông nghiệp không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, dẫn đến việc tăng chi phí sản xuất và có thể khiến giá thành sản phẩm cao hơn.

Trong những bất cập vừa nêu, bất cập lớn nhất là các mặt hàng phân bón, thiết bị, máy móc nông nghiệp hiện nay là không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, dẫn đến việc tăng chi phí sản xuất và có thể khiến giá thành sản phẩm cao hơn. Bất cập này đi ngược với mục tiêu ban đầu của chính sách là hỗ trợ nông dân giảm chi phí, khiến chính sách không đạt hiệu quả cao như mong đợi.

Cần chính sách thuế GTGT phân bón phù hợp để đạt mục đích kép - SBLAW
Cần chính sách thuế GTGT phân bón phù hợp để đạt mục đích kép

PV: Bộ Tài chính và nhiều chuyên gia kiến nghị áp thuế GTGT 5% cho phân bón thay cho quy định cũ, ông nhìn nhận điều này có phù hợp với xu thế chung của thế giới hay không?

Luật sư Nguyễn Thanh Hà: Trên thực tế, nhiều quốc gia đã áp dụng thuế GTGT đối với phân bón và các sản phẩm nông nghiệp tương tự nhằm mở rộng cơ sở thuế và bảo đảm nguồn thu ngân sách. Ví dụ, tại Pháp và Đức, các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU), thuế GTGT chuẩn được áp dụng đối với phân bón, trong khi các nước như Đan Mạch và Latvia áp dụng thuế GTGT nhưng cũng có các cơ chế hỗ trợ cho nông dân nhỏ để giảm thiểu gánh nặng tài chính.

Các quốc gia như Romania và Ba Lan, là những nước sản xuất nông nghiệp lớn trong EU, cũng áp thuế GTGT đối với phân bón, mặc dù có một số quốc gia chọn miễn thuế hoặc áp thuế suất thấp cho các trang trại quy mô nhỏ nhằm giảm bớt áp lực hành chính và tài chính. Tại Canada, thuế GTGT được áp dụng đối với phân bón, tuy nhiên các nhà sản xuất nông nghiệp được hưởng lợi từ hệ thống tín dụng thuế đầu vào để giảm thiểu tác động tài chính. Các quốc gia này đều cố gắng tìm kiếm sự cân bằng giữa việc tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và duy trì tính cạnh tranh cho các sản phẩm nông nghiệp nội địa.

Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, việc miễn thuế hoặc áp thuế suất GTGT 0% đối với một số loại phân bón vẫn được duy trì nhằm hỗ trợ phát triển nông nghiệp bền vững và giảm gánh nặng chi phí cho nông dân. Ví dụ, trong EU, một số quốc gia áp dụng thuế suất GTGT thấp hơn cho phân bón hữu cơ, phù hợp với chiến lược Thỏa thuận xanh của EU.

Các quốc gia như Ấn Độ và các tỉnh tại Canada cũng cung cấp các khoản trợ cấp hoặc miễn thuế GTGT cho phân bón hữu cơ nhằm khuyến khích nông nghiệp hữu cơ và giảm sự phụ thuộc vào phân bón hóa học. Tại Hoa Kỳ, các bang như California áp dụng các khoản tín dụng thuế và trợ cấp cho các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ.

Do đó, mặc dù nhiều quốc gia áp dụng thuế GTGT đối với phân bón, họ cũng triển khai các cơ chế như giảm thuế, miễn thuế hoặc tín dụng thuế để bảo vệ nông dân khỏi gánh nặng tài chính. Trong bối cảnh của Việt Nam, một số đề xuất về một mức thuế linh hoạt hơn có thể là giải pháp hợp lý để vừa bảo đảm quyền lợi cho doanh nghiệp, vừa không gây thêm áp lực cho nông dân.

PV: Theo ông, khi xây dựng dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) cần lưu ý những điều gì để bảo đảm được phòng vệ thương mại, từ đó hỗ trợ tốt nhất cho ngành sản xuất trong nước?

Luật sư Nguyễn Thanh Hà: Tính đến nay Việt Nam đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA). Bản chất của FTA là xóa bỏ hàng rào thuế quan và ngay lập tức thị trường Việt Nam sẽ được mở cửa hàng hóa. Nếu như trong WTO, Việt Nam chỉ cam kết cắt giảm thuế cho khoảng 1/3 số dòng thuế thì trong hầu hết các FTA đã ký, Việt Nam cam kết xóa bỏ tới 80-90% số dòng thuế.

Cần chính sách thuế phù hợp hơn để hỗ trợ ngành nông nghiệp phát triển và giảm gánh nặng cho doanh nghiệp. Ảnh: PVN

Cần chính sách thuế phù hợp hơn để hỗ trợ ngành nông nghiệp phát triển và giảm gánh nặng cho doanh nghiệp. Ảnh: PVN

Như vậy, với mức độ mở cửa lớn hơn, hàng hóa từ các nước đối tác FTA của Việt Nam có thể dễ dàng vào thị trường Việt Nam hơn mà không phải chịu các rào cản về thuế, đồng thời, việc các doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng có xu hướng gia tăng. Điều này khiến sức ép về cạnh tranh với hàng nhập khẩu đối với các ngành sản xuất của Việt Nam rất lớn.

Trong bối cảnh đó, phòng vệ thương mại là biện pháp duy nhất được cho phép trong FTA mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng để bảo vệ mình hoặc tạm thời giảm áp lực bởi sự gia tăng của hàng nhập khẩu để có thời gian phục hồi và tự điều chỉnh, song nói về kinh nghiệm phòng vệ thương mại, chúng ta vẫn còn khá “non trẻ”.

Với doanh nghiệp sản xuất phân bón, theo Luật Thuế 71, tất cả chi phí đầu tư nâng cấp nhà máy, nâng cao chất lượng sản phẩm không được hoàn thuế và cộng vào tổng mức đầu tư, điều này dẫn tới nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn ở vật tư nguyên liệu đầu vào, chi phí đầu tư mua sắm trang thiết bị, chuyển đổi công nghệ không được áp dụng chế độ khấu trừ thuế GTGT nên tất cả các khoản thuế đầu vào mà doanh nghiệp trả đã cộng vào giá bán, cộng vào chi phí cố định làm tăng giá sản phẩm.

Trường hợp các mặt hàng nội địa được miễn thuế lại dẫn đến các mặt hàng đó nhập khẩu cũng không chịu thuế, do đó các doanh nghiệp nước ngoài có cơ hội tấn công vào thị trường Việt Nam với sản phẩm mang mác “hàng ngoại” và mức giá ưu đãi hơn. Điều này đã vô hình trung đã tạo nên cạnh tranh không lành mạnh, nhiều doanh nghiệp nước ngoài có hành vi “phá giá” khiến doanh nghiệp trong nước chịu thua lỗ.

Để hạn chế hiện tượng này, khi xây dựng dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) cần đánh giá cẩn trọng tác động kinh tế và chính sách, thu hẹp đối tượng dịch vụ được xác định là dịch vụ xuất khẩu để bảo đảm chính sách thuế được sửa đổi một cách toàn diện, nhưng không gây xáo trộn tình hình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần ổn định kinh tế - xã hội.

Luat su Nguyen Thanh Ha - Chu tich cong ty luat SBLAW
Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch công ty luật SBLAW

PV: Góp ý về dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) đối với phân bón, thiết bị nông nghiệp, theo ông cần điều chỉnh như thế nào để đáp ứng được chủ trương hỗ trợ nông dân, sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là bảo đảm an ninh lương thực, tránh phụ thuộc vào phân bón nhập khẩu?

Luật sư Nguyễn Thanh Hà: Dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi) dự kiến chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng chịu thuế suất 5%, việc này sẽ tác động đến cả 3 chủ thể là Nhà nước, doanh nghiệp và nông dân.

Cụ thể, Nhà nước sẽ có cơ hội tăng thu ngân sách, doanh nghiệp sản xuất phân bón sẽ được khấu trừ thuế đầu vào, từ đó có điều kiện để hạ giá thành sản phẩm tương ứng số thuế được khấu trừ, tăng khả năng cạnh tranh với phân bón nhập khẩu, bảo đảm tính công bằng trong thực hiện chính sách thuế GTGT giữa phân bón nhập khẩu và phân bón sản xuất trong nước.

Đối với người nông dân, do bản chất của thuế GTGT là thuế gián thu, người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Việc chuyển phân bón, thiết bị nông nghiệp sang chịu thuế suất 5% sẽ là cơ sở để doanh nghiệp giảm bớt chi phí sản xuất. Với doanh nghiệp, việc áp thuế 5% với phân bón có thể giúp các doanh nghiệp sản xuất trong nước có dư địa để giảm giá bán, tuy nhiên cần cơ chế giám sát chặt chẽ để bảo đảm không có sự trục lợi chính sách.

Nông nghiệp nước ta đang bảo đảm sinh kế cho trên 60% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn; chiếm 30% lực lượng lao động cả nước và chiếm tỷ trọng gần 12% GDP. Để cân bằng được cả 2 yếu tố về bảo đảm quyền lợi cho nông dân, an ninh lương thực cũng như tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh cho phân bón nội địa, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xem xét cẩn trọng việc áp dụng thuế 5% với mặt hàng phân bón.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Nguồn: https://laodong.vn/kinh-doanh/can-chinh-sach-thue-gtgt-phan-bon-phu-hop-de-dat-muc-dich-kep-1414104.ldo

Tham khảo thêm >> Dịch vụ Luật sư tư vấn thuế

0/5 (0 Reviews)

Bài viết liên quan