Tình huống: Công ty công nghệ X được thành lập bởi 03 thành viên (A, B, C) với vốn điều lệ đăng ký là 3 tỷ đồng, chia đều mỗi người 33.3% (tương đương 1 tỷ đồng/người). Trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (ERC), cả 3 đều được ghi nhận là thành viên góp vốn đủ. Tuy nhiên, trên thực tế, sau 06 tháng hoạt động, anh A (Giám đốc kỹ thuật) mới chỉ chuyển vào tài khoản công ty 100 triệu đồng để chi tiêu lặt vặt, 900 triệu còn lại anh A liên tục trì hoãn vì lý do kẹt tiền. Đến tháng thứ 7, anh A nộp đơn xin nghỉ việc và tuyên bố: “Dù tôi nghỉ làm, nhưng trên giấy tờ tôi vẫn sở hữu 33.3% cổ phần. Các anh phải chia lợi nhuận cho tôi, hoặc mua lại cổ phần của tôi với giá 2 tỷ”. Tôi là B (Đại diện pháp luật), tôi muốn hỏi: Công ty có quyền phủ nhận tư cách cổ đông của A và thu hồi số cổ phần khống đó không?
Trả lời:
1.Nghĩa vụ góp vốn
Theo khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020, thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên phải góp đủ và đúng loại tài sản đã cam kết trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thời hạn ngắn hơn
![]()
Trong trường hợp này:
- Công ty đã hoạt động hơn 06 tháng;
- Anh A chỉ góp 100 triệu đồng trên tổng số 1 tỷ đồng đã cam kết.
Như vậy, anh A đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ góp vốn theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Việc ERC ghi nhận anh A sở hữu 33,3% vốn điều lệ chỉ mang tính kê khai hành chính, được cấp dựa trên thông tin do doanh nghiệp tự kê khai, không phải là căn cứ xác lập quyền sở hữu nếu nghĩa vụ góp vốn không được thực hiện trên thực tế.
2. Hậu quả pháp lý đối với phần vốn chưa góp của A
Theo khoản 3 Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020:
(1) Thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ vốn:
- Đương nhiên không còn là thành viên của công ty đối với phần vốn chưa góp;
- Không có quyền đối với phần vốn chưa góp;
(2) Phần vốn chưa góp được Hội đồng thành viên chào bán theo quyết định của công ty.
Áp dụng vào tình huống này:
- Anh A chỉ được công nhận tư cách thành viên tương ứng với 100 triệu đồng đã thực góp (khoảng 3,3% vốn điều lệ);
- 900 triệu đồng chưa góp (tương đương khoảng 30%) không thuộc quyền sở hữu của A, và A không có quyền yêu cầu chia lợi nhuận, biểu quyết hoặc định đoạt đối với phần vốn này;
- Yêu cầu của A về việc buộc công ty hoặc các thành viên khác mua lại “33,3% vốn” với giá 2 tỷ đồng là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý.
3. Trách nhiệm còn lại của A và rủi ro đối với B, C
3.1. Trách nhiệm của A
Theo khoản 4 Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020, mặc dù mất quyền đối với phần vốn chưa góp, anh A vẫn phải chịu trách nhiệm tương ứng với toàn bộ số vốn đã cam kết (1 tỷ đồng) đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát sinh trước ngày công ty đăng ký điều chỉnh vốn điều lệ và tỷ lệ vốn góp.
Nói cách khác, việc không góp đủ vốn không giúp A thoát trách nhiệm đối với các khoản nợ hoặc nghĩa vụ tài chính phát sinh trong giai đoạn “treo” vốn.
3.2. Rủi ro pháp lý của B và C nếu không xử lý kịp thời
Nếu B và C không thực hiện việc điều chỉnh vốn điều lệ và tỷ lệ góp vốn theo quy định:
- Công ty có thể bị xử phạt hành chính theo Nghị định 122/2021/NĐ-CP;
- Người quản lý doanh nghiệp có thể bị xem xét vi phạm nghĩa vụ trung thực, cẩn trọng theo Điều 71 Luật Doanh nghiệp 2020, đặc biệt nếu việc “treo” vốn ảo gây nhầm lẫn cho đối tác, cơ quan thuế hoặc chủ nợ.
4. Hướng xử lý đề xuất
Bước 1: Xác nhận vốn thực góp và ra Nghị quyết HĐTV
HĐTV lập biên bản xác nhận số vốn thực góp của A đến hết ngày thứ 90 kể từ ngày thành lập; đồng thời ra Nghị quyết:
- Công nhận A chỉ sở hữu phần vốn đã góp thực tế (100 triệu đồng);
- Quyết định chào bán phần vốn 900 triệu đồng chưa góp.
Anh A không có quyền biểu quyết đối với phần vốn chưa góp.
Bước 2: Điều chỉnh tư cách thành viên và hồ sơ nội bộ
Công ty thực hiện:
- Thu hồi và cấp lại Giấy chứng nhận phần vốn góp cho A theo số vốn thực góp;
- Cập nhật Sổ đăng ký thành viên;
- Thông báo bằng văn bản việc bác bỏ yêu cầu chia lợi nhuận hoặc mua lại phần vốn “khống” của A.
Bước 3: Đăng ký thay đổi tại Cơ quan đăng ký kinh doanh
Trong thời hạn 30 ngày, công ty thực hiện thủ tục:
- Điều chỉnh vốn điều lệ và/hoặc tỷ lệ vốn góp;
- Cập nhật thông tin thành viên theo đúng thực trạng góp vốn.
Trong tình huống này, pháp luật bảo vệ những thành viên góp vốn thực tế, không bảo vệ quyền lợi phát sinh từ việc kê khai vốn nhưng không thực hiện nghĩa vụ tài chính. Anh A đã tự đánh mất quyền đối với phần vốn 900 triệu đồng chưa góp, và không có cơ sở pháp lý để yêu cầu công ty chia lợi nhuận hoặc mua lại phần vốn này với giá cao.
Công ty không có nghĩa vụ “mua lại” vốn khống, mà có đầy đủ quyền theo Luật Doanh nghiệp 2020 để xử lý, phân chia lại phần vốn chưa góp và ổn định cơ cấu sở hữu. Tuy nhiên, B và C cần khẩn trương thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết để tránh rủi ro trách nhiệm cho chính mình với tư cách người quản lý doanh nghiệp.
Tham khảo tư vấn : Dịch vụ Luật Doanh nghiệp