Tư vấn về Điều khoản về Quyền sở hữu trí tuệ khi soạn thảo Hợp đồng dịch vụ “Phát triển phần mềm

Nội dung bài viết

Câu hỏi:

Công ty tôi thuê Công ty B phát triển một phần mềm quản lý khách hàng (CRM), trị giá 100.000.000 đồng. Hợp đồng ghi rõ yêu cầu, tiến độ, phương thức thanh toán… nhưng không ghi nhận rõ ràng điều khoản về quyền sở hữu trí tuệ. Sau khi hoàn tất, Công ty tôi triển khai phần mềm cho hệ thống của mình. Vài tháng sau, phát hiện Công ty B bán phần mềm với mã nguồn tương tự cho nhiều doanh nghiệp khác. Vậy trong trường hợp này, công ty chúng tôi có thể lấy lại quyền sở hữu trí tuệ và ngăn cấm không cho Bên B bán phần mềm cho công ty khác không?

Trả lời:

Theo Điều 39 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2022),

“Chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả

  1. Tổ chức giao nhiệm vụ sáng tạo tác phẩm cho tác giả là người thuộc tổ chức mình là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
  2. Tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng với tác giả sáng tạo ra tác phẩm là chủ sở hữu các quyền quy định tại Điều 20 và khoản 3 Điều 19 của Luật này, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”

 Trong trường hợp này, quyền tác giả (bao gồm quyền nhân thân và tài sản) đối với phần mềm máy tính thuộc về tổ chức, cá nhân tạo ra tức là Công ty B, trừ khi hợp đồng dịch vụ quy định việc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cho bên thuê phát triển phần mềm (Công ty A). Đồng thời, theo quy định tại Khoản 4 Điều 8 Bộ luật Dân sự 2015 quy định quyền sở hữu trí tuệ là tài sản của Bên B được xác lập dựa trên kết quả của lao động, sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ. Việc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ chỉ có hiệu lực nếu có thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng theo quy định tại Điều 39, Luật Sở hữu trí tuệ 2005.

Vì hợp đồng không ghi nhận việc chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ (bao gồm mã nguồn) của phần mềm, nên quyền sở hữu trí tuệ mặc nhiên thuộc B. Công ty A chỉ có quyền sử dụng phần mềm theo mục đích ban đầu được ghi nhận trong hợp đồng tức là phát triển phần mềm, nhưng không có quyền độc quyền sử dụng hoặc sở hữu phần mềm đó. Do vậy, Công ty A không thể lấy lại quyền sở hữu hoặc ngăn cấm B bán phần mềm cho công ty khác, trừ khi chứng minh được Bên B vi phạm bí mật kinh doanh theo Khoản 3 Điều 121 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 “Chủ sở hữu bí mật kinh doanh là tổ chức, cá nhân có được bí mật kinh doanh một cách hợp pháp và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó. Bí mật kinh doanh mà bên làm thuê, bên thực hiện nhiệm vụ được giao có được trong khi thực hiện công việc được thuê hoặc được giao thuộc quyền sở hữu của bên thuê hoặc bên giao việc, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.” hoặc hai Bên có thỏa thuận về  điều khoản khác về sở hữu trí tuệ trong hợp đồng.

Bài viết liên quan