Nợ bảo hiểm xã hội có thể tạo ra những thách thức nền kinh tế và xã hội, khiến cho các hệ thống bảo hiểm phải xem xét và điều chỉnh chiến lược quản lý tài chính để đảm bảo tính ổn định và bền vững trong dài hạn. Dưới đây là bài phỏng vấn Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch công ty luật SBLAW về tình trạng nợ bảo hiểm xã hội hiện nay.
Câu hỏi 1: Thời gian qua, tình trạng các doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, chủ doanh nghiệp bỏ trốn, có xu hướng tăng nhanh… Nhưng nợ BHXH thì chưa có văn bản hướng dẫn xử lý. Điều này dẫn đến tình trạng tiền nợ BHXH cộng với tiền lãi chậm đóng hàng tháng phát sinh ngày càng cao nhưng không có cơ sở để giải quyết, gây nhiều bức xúc cho người lao động khi nghỉ việc. Ông đánh giá gì về thực tế này?
Trả lời:
Trong thời gian gần đây, tình trạng các doanh nghiệp phá sản, ngừng hoạt động, và chủ doanh nghiệp bỏ trốn đang có xu hướng tăng nhanh, đặt ra nhiều thách thức về xử lý nợ BHXH tại Việt Nam. Điều này gây ra tình trạng tiền nợ BHXH cùng với tiền lãi chậm đóng hàng tháng ngày càng cao, nhưng đồng thời không có văn bản hướng dẫn cụ thể để giải quyết vấn đề này. Tình trạng này không chỉ gây khó khăn cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Một trong những vấn đề chính đối mặt là sự thiếu rõ ràng và chi tiết trong quy định về cách xử lý nợ BHXH khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Sự mơ hồ trong quy trình này tạo ra tình trạng không chắc chắn cho người lao động về việc liệu họ có nhận được các khoản BHXH đã đóng góp hay không khi rời khỏi công ty. Điều này gây lo lắng và bất an trong cộng đồng lao động, đặc biệt là khi môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn.
Người lao động, trong khi đó, phải đối mặt với tình trạng không chắc chắn về việc nhận quyền lợi BHXH sau khi nghỉ việc. Họ có thể đối diện với khó khăn tài chính khi cần sử dụng các khoản tiền này để hỗ trợ cho việc tái định cư, chăm sóc sức khỏe, hay giáo dục. Sự bất an này còn ảnh hưởng đến tinh thần làm việc và lòng tin của người lao động đối với hệ thống an sinh xã hội.
Để giải quyết vấn đề này, cần sự can thiệp của cơ quan quản lý và chính phủ để xây dựng hướng dẫn rõ ràng và chi tiết về cách xử lý nợ BHXH khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Đồng thời, có thể cần xem xét và điều chỉnh chính sách để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cả doanh nghiệp và người lao động. Nâng cao sự minh bạch trong quy trình xử lý nợ và đảm bảo rằng quyền lợi của người lao động được bảo vệ là rất quan trọng để xây dựng lòng tin và sự công bằng trong hệ thống BHXH.
Câu hỏi 2: Nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động, theo ông/bà cần có chế tài xử phạt như thế nào để hạn chế tình trạng này?
Trả lời:
Để đối mặt với tình trạng doanh nghiệp trốn đóng Bảo hiểm Xã hội (BHXH), việc thiết lập các chế tài xử phạt là quan trọng để đảm bảo tính công bằng và tăng cường trách nhiệm của doanh nghiệp. Một số biện pháp có thể được thực hiện để hạn chế hiện tượng này:
Biện pháp quan trọng là việc thiết lập mức xử phạt tài chính đủ nặng để làm động viên doanh nghiệp tuân thủ quy định BHXH. Cần thiết lập một hệ thống phạt dựa trên mức độ vi phạm và quy mô doanh nghiệp, giúp đảm bảo rằng sự xử lý là công bằng và khả thi với tất cả các doanh nghiệp, từ những doanh nghiệp nhỏ đến những tập đoàn lớn.
Chế tài xử phạt cũng có thể được thiết kế theo hình thức tăng dần theo số lần vi phạm. Điều này có thể bao gồm mức phạt cứng rắn cho lần vi phạm đầu tiên, nhưng mức phạt sẽ tăng lên mỗi lần vi phạm tiếp theo. Biện pháp này không chỉ hướng dẫn doanh nghiệp về quy định, mà còn cung cấp cơ hội để họ sửa chữa sai lầm và tuân thủ quy định trong tương lai.
Công bố công khai thông tin về các doanh nghiệp vi phạm BHXH có thể là một chế tài hiệu quả. Bằng cách làm này, cộng đồng và người lao động có thể biết được về những doanh nghiệp không tuân thủ, từ đó tạo ra áp lực xã hội và tình thần tự giác, khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ quy định.
Ngoài ra, cần thiết lập một chính sách xử phạt cá nhân đối với chủ doanh nghiệp. Điều này có thể bao gồm việc xử phạt tài chính cá nhân hoặc thậm chí là trách nhiệm hình sự đối với những chủ doanh nghiệp liên tục vi phạm và không đảm bảo quyền lợi BHXH cho nhân viên.
Câu hỏi 3: Về phía cơ quan chức năng, đã có nhiều văn bản gửi UBND các tỉnh, thành phố, Tổng LĐLĐ Việt Nam và BHXH Việt Nam đề nghị phối hợp đôn đốc, chỉ đạo các cơ quan chức năng ở địa phương phối hợp thực hiện nghiêm các quy định của Luật BHXH, trong đó tập trung kiểm tra, thanh tra các doanh nghiệp nợ đóng, chậm đóng BHXH, xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm. Đặc biệt, Bộ luật Hình sự (sửa đổi) 2015 đã bổ sung tội danh trốn đóng BHXH. Tuy nhiên vẫn chưa đạt hiệu quả, theo ông nguyên nhân do đâu?
Trả lời:
Cụ thể, có 3 nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn đóng bảo hiểm gồm: ý thức chấp hành của một số doanh nghiệp chưa cao; nhận thức của người lao động còn hạn chế, tâm lý sợ mất việc nên không dám đấu tranh đòi quyền lợi; và cuối cùng là do suy thoái kinh tế, dịch bệnh Covid-19 khiến doanh nghiệp khó khăn, làm ăn thua lỗ, phá sản nên không có kinh phí đóng bảo hiểm cho người lao động.
Bên cạnh đó, việc xác minh, tiếp nhận, củng cố hồ sơ, tài liệu, chứng cứ để xử lý các doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm còn chậm. Một số trường hợp hồ sơ từ cơ quan BHXH chuyển giao cho cơ quan điều tra chưa đảm bảo giá trị pháp lý, gửi chứng cứ bản photo chứ chưa phải bản gốc. Hồ sơ chuyển giao không thể hiện hành vi trốn đóng BHXH và các biện pháp cưỡng chế của cơ quan BHXH đã áp dụng. Chưa kể, trong các kiến nghị khởi tố, nhiều hành vi trốn đóng bảo hiểm lần đầu chưa bị xử phạt hành chính nên chưa cấu thành yếu tố tội phạm.
Có nhiều doanh nghiệp không còn hoạt động, chuyển sang địa phương khác, thay đổi pháp nhân, tuyên bố phá sản để né tránh các nghĩa vụ với người lao động, gây khó khăn cho cơ quan điều tra khi xác minh. Trong quá trình điều tra, nhiều đơn vị cung cấp hồ sơ, thông tin chậm ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết.
Câu hỏi 4: Nhằm ngăn chặn tình trạng trốn, nợ đóng BHXH, Luật Bảo hiểm Xã hội (sửa đổi) đang bổ sung các biện pháp, như: Cơ quan có thẩm quyền quyết định hoãn xuất cảnh đối với với trường hợp người sử dụng lao động trốn đóng bảo hiểm xã hội từ 12 tháng trở lên; Quy định tổ chức Công đoàn và cơ quan BHXH có thẩm quyền khởi kiện vụ việc về BHXH ra Tòa án; Khi có dấu hiệu phạm tội trốn đóng BHXH theo quy định của Bộ luật Hình sự, cơ quan BHXH kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật; Bổ sung trách nhiệm của người sử dụng phải bồi thường cho người lao động nếu không tham gia hoặc tham gia BHXH bắt buộc không đầy đủ, kịp thời mà gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động? Ông có ý kiến gì về quy định này?
Trả lời:
Với đề xuất trên, theo quan điểm của người làm doanh nghiệp sẽ mong muốn là nếu như có những vi phạm về bảo hiểm thì xử lý bằng những biện pháp kinh tế và tài chính, chứ không nên xử lý theo những hình thức nặng hơn và hoãn xuất cảnh.
Tuy nhiên, dưới góc độ các nhà làm luật, việc bổ sung các quy định trên là hoàn toàn hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng trốn, nợ đóng BHXH và nâng cao được trách nhiệm của Doanh nghiệp đối với người lao động.
Thiết nghĩ, cần đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc việc bổ sung biện pháp hoãn xuất cảnh đối với với trường hợp người sử dụng lao động trốn đóng bảo hiểm xã hội từ 12 tháng trở lên để bảo đảm đồng bộ với các chế tài xử lý vi phạm trong hệ thống pháp luật. Ví dụ như là Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam năm 2019 quy định áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh với người đại diện trong trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn. Tức là có hành vi vi phạm hành chính và đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Việc dự thảo Luật quy định biện pháp hoãn xuất cảnh là biện pháp độc lập không gắn với biện pháp hành chính cũng không gắn với hình sự. Cho nên cần phải cân nhắc thêm về quy định này.