Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB LAW đã trả lời trong Chương trình Câu chuyện hội nhập trên Truyền hình nhân dân về vấn đề: "Việt Nam nỗ lực hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh". Dưới đây là nội dung chi tiết của bài phỏng vấn:
Câu 1: Thưa ông, ông đánh giá thế nào về ý nghĩa của việc “mở rộng hơn quyền kinh doanh” được quy định trong mộ số văn bản pháp luật của VN?
Trả lời:
Kinh tế chỉ phát triển khi người dân được tự do kinh doanh, thuận tiện trong thành lập và vận hành doanh nghiệp.
Trong Hiến pháp năm 1992, Điều 57 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp của Việt Nam ghi nhận quyền tự do kinh doanh của công dân. Mặc dù nó còn hạn chế ở phạm vi quyền tự do kinh doanh, các chủ thể chỉ được tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà pháp luật cho phép (tự do trong phạm vi đóng), nhưng so với các quan điểm quản lý kinh tế thời kỳ trước đó, đây vẫn được xem là bước tiến đặc biệt quan trọng trong việc ghi nhận quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam.
Đến Hiến pháp năm 2013, quyền tự do kinh doanh đã có một bước tiến mới, cởi mở hơn với nguyên tắc: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Quy định này hàm chứa hai ý quan trọng, đó là: mọi người có quyền tự do kinh doanh; và giới hạn của quyền tự do đó là những gì luật cấm, nói khác đi, muốn cấm cái gì, thì Nhà nước phải công bố minh thị.
Hiện thực hóa quyền đó, 2 bộ luật liên quan đến doanh nghiệp là Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 đã được xây dựng với cách tiếp cận về quyền tự do kinh doanh theo hướng đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp.
Một điểm nổi bật là hướng tiếp cận mới liệt kê một số ngành nghề cấm kinh doanh, ngoài các ngành nghề này, mọi chủ thể đều có quyền kinh doanh. Ngoài ra, đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, thì cần phải thống kê rõ ràng, minh bạch trong cùng một danh mục để các chủ thể biết để tuân thủ.
Nhưng, các quy định mới và tiến trình thực hiện quyền tự do kinh doanh vẫn còn những cản trở.
Câu 2: Cụ thể, cộng đồng doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi như thế nào với những đổi mới trong quyền kinh doanh, thay đổi ngành nghề kinh doanh, việc gia nhập thị trường?
Trả lời:
Quyền tự do kinh doanh về cơ bản được cụ thể hóa qua một số quyền như quyền tự do thành lập doanh nghiệp, lựa chọn ngành nghề, quyền tiếp cận thị trường, quyền bình đẳng, tự do cạnh tranh lành mạnh, quyền được đảm bảo sở hữu tài sản của doanh nghiệp. Mục tiêu Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2014 là đơn giản hóa điều kiện, thủ tục cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 hiện nay gia tăng các quyền của doanh nghiệp, bao gồm điều tiết nguồn vốn trong kinh doanh, tăng giảm vốn điều lệ, quyền tự do biểu quyết, một doanh nghiệp có nhiều hơn một chức danh giám đốc, quyền được giữ chức danh giám đốc đồng thời cho nhiều doanh nghiệp, quyền tự khắc và quản lý con dấu. Nhà đầu tư nước ngoài có quyền lựa chọn phương thức bảo hộ, giải quyết các tranh chấp đầu tư ngoài hệ thống cơ quan tư pháp tòa án của một quốc gia, như được chọn cơ chế giải quyết theo trọng tài thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp bảo hộ đầu tư (ISCID)...
Cụ thể:
Thứ nhất, Ngành nghề cấm kinh doanh: Điều cấm đã được nói rõ
Luật Doanh nghiệp năm 2005 không nêu các ngành nghề cấm kinh doanh. Thay vào đó, Điều 30 Luật Đầu tư năm 2005 cấm đầu tư trong các lĩnh vực gây phương hại đến (i) quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng; (ii) di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; (iii) sức khỏe nhân dân, hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường; và (iv) các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm. Vấn đề là không dễ xác định phạm vi của các lĩnh vực cấm đầu tư, vậy nên, về bản chất, không thể xác định được giới hạn cấm.
Tuy nhiên, điều này hoàn toàn thay đổi trong Luật doanh nghiệp năm 2014. Điều 7 về quyền của doanh nghiệp trong LDN 2014 minh thị rằng doanh nghiệp được “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm”.
Vậy luật cấm gì? Điều 6 Luật Đầu tư năm 2014 cấm đầu tư kinh doanh trong 06 ngành
nghề sau: kinh doanh ma túy; kinh doanh hóa chất, khoáng vật cấm; kinh doanh động, thực vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm có nguồn gốc từ tự nhiên; kinh doanh mại dâm; mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người và các hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người.
Như vậy, Doanh nghiệp được tự do đăng ký những ngành nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, “tự do”. ở đây không được hiểu theo nghĩa Doanh nghiệp có thể kinh doanh bất cứ ngành nghề nào mà không gặp “rào cản” gì khác. Bởi lẽ: Luật đầu tư năm 2014 quy định danh mục các ngành nghề có điều kiện. Nếu Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ngành nghề thuộc một trong các ngành nghề trong danh mục này, sẽ cần đáp ứng đủ điều kiện trước khi hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ quy định của Pháp luật.
Ví dụ, khi công ty bạn muốn kinh doanh rượu thì mặc dù kinh doanh rượu không nằm trong danh mục cấm nhưng công ty bạn vẫn phải đáp ứng một số điều kiện trước khi hoạt động kinh doanh.
Thứ hai, Đăng ký kinh doanh: Không cần ghi ngành nghề
Điều 9 Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ “hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKDN). Điều luật này trói buộc doanh nghiệp trong những ngành nghề mà Nhà nước nghĩ ra, liệt kê ra và cho phép doanh nghiệp đăng ký. Suy cho cùng, đó là sự ban phát quyền kinh doanh từ Nhà nước.
Tuy nhiên, một khi giới hạn cấm kinh doanh đã được làm sáng tỏ, việc liệt kê ngành nghề kinh doanh, với ý nghĩa xác định quyền hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sẽ trở nên vô nghĩa.
Trong LDN 2014, ngành nghề kinh doanh không còn là một nội dung trong GCNĐKDN nữa. Theo Điều 29 Luật Doanh nghiệp năm 2014, GCNĐKDN sẽ chỉ còn bốn nội dung: tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính; thông tin về người đại diện theo pháp luật và thành viên công ty; và vốn điều lệ.
Đứng ở góc độ điều hành, doanh nghiệp sẽ không còn phải lo lắng xem công việc mình đang làm có phù hợp với ngành nghề đã đăng hay không, hoặc hợp đồng sẽ hoặc đã ký có bị đối tác kiện ra tòa yêu cầu tuyên vô hiệu với lý do nội dung công việc không nằm trong phạm vi ngành nghề đăng ký hay không.
Thứ ba, Con dấu: sự cởi trói cần thiết trong môi trường kỹ thuật số
Con dấu đã từng được ví là “ngọc tỷ” trong doanh nghiệp, không một giấy tờ nào được thừa nhận và tôn trọng khi không có đo đỏ con dấu đóng lên. Ai nắm con dấu người đó có thể kiểm soát toàn bộ công ty thậm chí làm cho cả một công ty ngừng hoạt động.
Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh khi mà những giao dịch được thực hiện qua những cái click chuột, thì con dấu dần mất vai trò của mình. Theo Điều 44 LDN 2014, doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu cũng như việc quản lý, sử dụng và lưu giữ nó.
Với quy định này, cơ quan công an sẽ không còn quyền vào doanh nghiệp để kiểm tra việc sử dụng dấu hoặc doanh nghiệp cũng không mất thời gian và chi phí lên xuống cơ quan công an để khắc dấu hoặc bị phạt khi lỡ làm mất con dấu. Cũng có thể hình ảnh cô văn thư cần mẫn cặm cụi đóng dấu trên những chồng hồ sơ cao ngất sẽ dần mờ nhạt đi cùng với thời gian vì cũng theo điều 44 này, “con dấu được sử dụng trong các trường hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng con dấu”.
Thứ tư, về người đại diện theo pháp luật
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có khá nhiều thay đổi về mặt quản trị công ty, trong đó có thay đổi về người đại diện theo pháp luật. Luật lần này cho phép các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật. Số lượng, chức danh quản lý và quyền, nhiệm vụ, nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ được quy định trong điều lệ công ty (điều 13)
Thay đổi này ảnh hưởng rất lớn đến mô hình tổ chức và quản trị công ty nhưng theo hướng quản trị công ty hiện đại. Mỗi giám đốc - người đại diện theo pháp luật của công ty - khi đó sẽ có quyền đại diện cho công ty trong phạm vi quyền hạn họ được trao. Và một khi họ thực hiện đúng thẩm quyền của mình, mọi hành động của họ sẽ ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp. Để có thể thích ứng được với quy định mới, doanh nghiệp sẽ buộc phải phân định rõ quyền, nhiệm vụ, nghĩa vụ của từng người đại diện theo pháp luật, đồng thời, đối tác sẽ phải tìm hiểu tư cách và thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật trước khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp.
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng đã bỏ tội danh kinh doanh trái phép. Nhà nước chủ trương tránh hình sự hóa các quan hệ kinh tế - dân sự, tôn trọng và bảo đảm nguyên
tắc người dân, doanh nghiệp được kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm. Thực tế, khi áp dụng Điều 159 Bộ Luật Hình sự năm 1999, rủi ro pháp lý có thể xảy ra cho bất kỳ chủ doanh nghiệp kinh doanh đa năng, đa ngành nào, vì nguy cơ dễ bị “xét nét” và đối mặt tội danh kinh doanh không có đăng ký hoặc kinh doanh không đúng nội dung đã đăng ký.
Câu 3: Ông đánh giá thế nào về thực tế triển khai những hành lang pháp lý để hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của DN?
Trả lời:
Mặc dù đã có những bước tiến như trên nhưng trong thực tế triển khai thì việc hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp lại gặp phải một số cản trở sau:
Thứ nhất, quy định các ngành nghề có điều kiện còn chưa chuẩn có thể gây ảnh hưởng quyền tự do kinh doanh. Một bước tiến trong Luật Đầu tư năm 2014 là tập hợp công bố được 267 ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhưng con số đó là quá lớn và quá nhiều trong một nền kinh tế bình thường. Con số 267 chỉ thuần túy là thống kê, chưa có sự đánh giá tổng hợp, thậm chí mang tính áp đặt, không có cơ sở thực tiễn, khoa học, hạn chế cạnh tranh, tính sáng tạo, đa dạng hóa sản phẩm, khả năng cung cấp sản phẩm tốt hơn...
Hơn nữa, theo báo cáo của Tổ Công tác thi hành Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, hiện có 16 ngành, nghề trong 267 ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện chưa ban hành điều kiện đầu tư kinh doanh tương ứng. Như vậy, chưa bảo đảm thực thi quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp.
Như vậy, sẽ dẫn đến nguy cơ các nghị định về điều kiện kinh doanh lại được nâng cấp từ thông tư lên và không làm thay đổi chất lượng của quy định về điều kiện kinh doanh.
Thứ hai, quy định bỏ đăng ký ngành nghề kinh doanh còn mâu thuẫn. Ngành nghề kinh doanh là một trong những nội dung doanh nghiệp bắt buộc phải thông báo. Cụ thể theo quy định tại khoản 3 Điều 24 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định “nội dung giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp bắt buộc phải có ngành nghề kinh doanh”, đồng thời tại điểm b khoản 1 Điều 25 nội dung điều lệ doanh nghiệp quy định ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp là nội dung bắt buộc phải có. Với quy định như trên thì doanh nghiệp bắt buộc phải đăng ký ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp khi tiến hành đăng ký doanh nghiệp. Như vậy, liệu có phải là sự cản trở quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp quy định tại Điều 7 của Luật Doanh nghiệp năm 2014 hay không? Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp có được hoạt động ở các ngành nghề mà mình không thông báo khi tiến hành đăng ký kinh doanh hay không? hoặc doanh nghiệp có được phép hoạt động các ngành nghề không quy định trong điều lệ doanh nghiệp hay không?
Hiện nay, cơ quan đăng ký kinh doanh có thủ tục xác nhận ngành nghề doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, việc xác nhận này để chứng minh doanh nghiệp đã đăng ký những ngành nghề trên và doanh nghiệp phải hoạt động theo nội dung xác nhận của doanh nghiệp. Như vậy, rõ ràng những quy định về quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 không có gì mới so với Luật Doanh nghiệp năm 2005. Có chăng chỉ khác nhau cách thể hiện nội dung quy định mà thôi, hay nói cách khác là "bình mới rượu cũ".
Thứ ba, tình trạng chồng chéo luật gây rủi ro cho doanh nghiệp. Các chủ thể dù có quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, nhưng do luật ở Việt Nam còn phức tạp, nhiều quy định chồng chéo ở các luật chuyên ngành, nên thực tế doanh nghiệp cũng không dám tự do thực hiện quyền của mình, với lo ngại là có thể ở đâu đó có quy định cấm, hoặc hạn chế quyền này. Có tình trạng là trong khi Luật Doanh nghiệp “mở”, thì các Luật chuyên ngành lại “đóng”, hoặc các luật của Quốc hội, văn bản của Chính phủ thì quy định thông thoáng nhưng văn bản của các cơ quan quản lý lại “siết chặt” bằng những loại giấy phép “con” hay bằng những thủ tục phiền hà không đáng có.
Thứ tư, sự trùng lặp giữa thủ tục đăng ký kinh doanh và thủ tục đăng ký đầu tư (quy định tại Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư) tạo ra tình trạng chồng chéo về thủ tục, gây phiền hà. Điều này đã được các nhà đầu tư nước ngoài phản ánh tại các Diễn đàn Doanh nghiệp gần đây. Từ góc độ thực tiễn, nếu coi sự thuận tiện, dễ dàng trong thủ tục gia nhập thị trường là thước đo thực tế cho quyền tự do kinh doanh (theo nghĩa càng thuận lợi thì quyền tự do càng dễ hiện thực hóa), thì có lẽ quyền tự do kinh doanh trong quy định của luật hiện hành còn chưa đạt được như mong muốn.
Câu 4: Ông chia sẻ thế nào về những khó khăn mà các DN còn gặp phải như trong PS chúng tôi đã nêu?
Trả lời:
Như tôi đã trình bày ở trên. các quy định pháp lý của Luật Doanh nghiệp năm 2014 (LDN năm 2014) và Luật Đầu tư năm 2014 đã góp phần đáng kể trong việc cải thiện môi trường đầu tư và phát huy quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế hiện nay việc thành lập doanh nghiệp vẫn còn có rất nhiều bất cập.
-Hiện nay, việc đăng ký ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp vẫn gặp vướng mắc về việc thủ tục buộc phải mã hóa ngành nghề dựa vào Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam. Theo Quyết định 337/QĐ-BKH về ban hành quy định nội dung hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam ngày 10/04/2007.
và căn cứ theo Quyết định 10/2007/QĐ-TTg ngày 23-1-2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành hệ thống ngành kinh tế Việt Nam. Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp tại điều 7.5 quy định đối với những ngành, nghề kinh doanh không có trong hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam, cơ quan đăng ký kinh doanh xem xét ghi nhận ngành, nghề kinh doanh này vào cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nếu không thuộc ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh.
Tuy vậy, không ít nhà đầu tư gặp khó khăn nếu chọn kinh doanh những ngành nghề không thuộc danh mục ban hành. Yêu cầu “mã hóa” ngành nghề kinh doanh tương thích với hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam là một cản trở đối với doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư theo nhu cầu của mình.
Nếu Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã ghi nhận quyền Tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà luật không cấm, việc quy định tương tự như yêu cầu đăng ký kinh doanh ngành nghề tương thích với quy định Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam có lẽ không còn tương thích.
-Thủ tục xét duyệt cho các đối tượng được hưởng ưu đãi còn quá phức tạp, quá rườm rà khiến các doanh nghiệp không hào hứng tham gia. Rất nhiều doanh nghiệp phàn nàn về các thủ tục hành chính chưa gọn lẹ, gây phiền toái và mất thời gian của doanh nghiệp. Thời gian thực hiện các trình tự thủ tục đầu tư còn kéo dài và quản lý tài chính khá phức tạp là một trong những cản trở đối với việc triển khai nhanh các dự án cũng như mở rộng quy mô của nó cho phù hợp với sự chuyển biến năng động và liên tục của thị trường và của doanh nghiệp.
-Hay việc áp dụng công nghệ trực tuyến trong đăng ký doanh nghiệp vẫn còn khó khăn.
Kể từ ngày 15/4/2013, đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử chính thức triển khai trên phạm vi cả nước theo Thông tư số 01/2013/TT-BKHĐT ngày 21/01/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Quy định này nhằm giảm tải nhiều thủ tục rườm rà khi các cá nhân phải trực tiếp đến cơ quan hành chính Nhà nước để thực hiện nhiều thủ tục đăng ký. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai, rất ít doanh nghiệp có thể tự sử dụng công cụ trực tuyến để đăng ký doanh nghiệp. Nguyên nhân là do việc đăng ký doanh nghiệp trực tuyến tương đối phức tạp. Để thao tác hoàn thành bộ hồ sơ đăng ký, nhà đầu tư phải đọc toàn bộ Hướng dẫn quy trình đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử gồm 77 trang tại cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia và phải nắm luật, phải biết điền chọn đúng ngành nghề trong hệ thống ngành nghề kinh doanh... Điều này khiến cho người dân lúng túng và không thực hiện được. Ngoài nguyên nhân là người dân chưa có thói quen sử dụng dịch vụ hành chính điện tử thì mặt phức tạp của hệ thống đăng ký doanh nghiệp trực tuyến cũng khiến cho nó không mang nhiều ý nghĩa thực tiễn, gây lãng phí nguồn lực và không đạt được những hiệu quả như kỳ vọng.
Câu 5: Để giải quyết những khó khăn trên theo ông các hàng lang pháp lý của chúng ta cần được cải thiện theo hướng nào?
Trả lời:
Quyền tự do kinh doanh theo quy định của Hiến pháp năm 2013 góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo đúng tinh thần “kinh tế thị trường”. Vì vậy, để quyền đó được thực thi tốt hơn, thiết nghĩ:
Thứ nhất, phải nâng cao quyền tự do kinh doanh thông qua việc quy định logic hệ thống pháp luật giữa luật chung và luật luật chuyên ngành hoàn toàn biện chứng với nhau. Trong trường hợp cần thiết có thể xây dựng quy trình riêng, đặc thù với một số ngành nghề nhưng phải đảm bảo là không được trái luật chung.
Thứ hai, phải tiếp tục tháo dỡ các rào cản từ khung pháp lý đến thể chế. Chính phủ, các bộ, ban ngành cần quyết liệt hơn cho “khai tử” hệ thống giấy phép con, giảm mệnh lệnh hành chính ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Những thủ tục xác nhận ngành nghề kinh doanh, buộc doanh nghiệp phải thông báo thay đổi ngành nghề kinh doanh, hay buộc doanh nghiệp ghi ngành nghề kinh doanh trong điều lệ doanh nghiệp nên xem xét bỏ để đảm bảo quyền tự do kinh doanh đúng tinh thần của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Thứ ba, tăng cường hoạt động tuyên truyền pháp luật cho các chủ thể kinh doanh về quyền tự do kinh doanh để họ có thể nắm bắt đầy đủ các quyền năng của mình mà pháp luật đã quy định, bảo vệ, cho phép thực hiện. Sự nắm bắt của các chủ thể kinh doanh có ý nghĩa rất lớn là tạo điều kiện cho các chủ thể thuận lợi trong tuân thủ pháp luật khi kinh doanh, tránh các rủi ro pháp lý. Điều đó sẽ thúc đẩy doanh nghiệp pháp triển góp phần vào xây dựng kinh tế đất nước.
Đặc biệt, điều quan trọng là cần phải đổi mới tư duy vì với Luật mới thì cách thức quản lý phải hoàn toàn thay đổi. Đó là phải quản lý theo nhu cầu của doanh nghiệp, chứ không phải quản lý theo sự áp đặt của cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, Luật Doanh nghiệp 2014 đã trao cho doanh nghiệp nhiều quyền lợi nên họ cần chủ động, tích cực sử dụng tối đa những quyền này để tạo hiệu quả cơ hội kinh doanh, cũng như bảo vệ tốt các quyền và lợi ích của mình.
Vai trò của doanh nghiệp cũng hết sức quan trọng trong việc tham mưu, kiến nghị và phối hợp triển khai thi hành Luật, góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh năng động, linh hoạt, cũng như ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hiện nay nhiều doanh nghiệp không chú ý đến vấn đề này mà bị động làm theo, khiến ý nghĩa cải cách của Luật bị giảm. Do đó, vai trò của các đơn vị tư vấn pháp lý, các luật sư rất quan trọng trong việc đưa các nội dung đổi mới của Luật Doanh nghiệp 2014 vào thực tiễn cuộc sống.
Câu 6: Luật sư có lưu ý gì với các DN trong việc chuẩn bị thành lập DN ở giai đoạn từ 2018 trở đi? Họ cần chuẩn bị những gì? Có thể lưu ý những thuận lợi và khó khăn mà có thể DN sẽ vướng phải?
Trả lời:
Nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập với nền kinh tế thế giới, mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh cần thực hiện thủ tục đăng thành lập doanh nghiệp để tạo được uy tín và thuận lợi hơn trong quá trình hoạt động. Các nhà đầu tư cần lưu ý những vấn đề sau:
Thứ nhất, khi lựa chọn loại hình công ty:
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các loại hình doanh nghiệp bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là hai loại hình công ty được đăng ký nhiều nhất (chiếm hơn 97% số lượng doanh nghiệp được đăng ký mới năm 2017). Lý do các nhà đầu tư lựa chọn đăng ký doanh nghiệp theo loại hình này là vì chế độ trách nhiệm hữu hạn, người góp vốn chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Hơn nữa, mô hình tổ chức và quản trị của 02 loại hình doanh nghiệp này rất chặt chẽ, đảm bảo cho công ty hoạt động động hiệu quả và giảm thiểu rủi ro.
Vì vậy, thiết nghĩ nhà đầu tư nên lựa chọn loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (nếu có 01 người góp vốn), loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (nếu có ít nhất 02 người tham gia góp vốn) và nếu có tối thiểu 03 người góp vốn thì có thể lựa chọn thêm mô hình công ty cổ phần. Đối với mô hình công ty cổ phần, doanh nghiệp có thể huy động được vốn từ nhiều chủ thể thông qua việc phát hành cổ phiếu và không hạn chế số lượng cổ đông, đặc biệt khi doanh nghiệp lớn mạnh có thể tham gia thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cơ cấu tổ chức của công ty khá phức tạp, công kềnh, khiến cho các nhà quản lý gặp không ít khó khăn.
Thứ hai, lưu ý ghi nhận, áp mã ngành nghề kinh Doanh khi thành lập công ty năm 2018:
Hiện nay, doanh nghiệp được tự do kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện luật định trước khi bắt đầu hoạt động hoạt động. Doanh nghiệp cần lưu ý cần mã hóa ngành nghề theo hệ thống ngành kinh tế cấp 4 theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg khi tiến hành đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp không bị hạn chế về số lượng ngành nghề kinh doanh, do đó, các chủ thể cần cân nhắc đăng ký các ngành nghề theo nhóm, có liên quan đến nhau và dự đoán khả năng mở rộng ngành nghề trong tương lai, tránh tình trạng phải thay đổi đăng ký doanh nghiệp nhiều lần.
Thứ ba, lưu ý khi đặt tên cho công ty:
Tên doanh nghiệp bao gồm hai thành tố loại hình doanh nghiệp và tên riêng. Tên doanh nghiệp trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng ký trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Doanh nghiệp không được sử dụng từ ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; sử dụng tên cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có thể có tên bằng nước ngoài hoặc tên viết tắt của doanh nghiệp. Tên bằng tiếng nước ngoài và tên viết tắt không được trùng với tên viết bằng tiếng nước ngoài, tên viết tắt của doanh nghiệp đã đăng ký.
Thứ tư, lưu ý về địa chỉ trụ sở chính của công ty:
Trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác định gồm số nhà, ngách, hẻm, ngõ phố, phố, đường hoặc thôn, xóm, ấp, xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có).
Nhà đầu tư cần lưu ý lựa chọn vị trí đặt trụ sở của doanh nghiệp không được là nhà chung cư, nhà tập thể (theo quy định tại Luật Nhà ở 2014 và Công văn số Công văn số 2544/BXD-QLN). Ngoài ra, cần lựa chọn trụ sở là nơi có sổ đỏ hoặc hợp đồng thuê, mượn trụ sở để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp trụ sở đó. Đối với nơi dự định đặt trụ sở là tòa nhà văn phòng, tòa nhà hỗn hợp thì cần có tài liệu xây dựng chứng minh tòa nhà có chức năng làm văn phòng.
Thứ năm, lưu ý về mức vốn điều lệ của công ty:
Vốn điều lệ là tổng giá trị do các thành viên đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng giá trị mệnh giá cổ phần đã bán hoặc đã được đăng ký mua khi thành lập doanh nghiệp đối với công ty cổ phần. Mức vốn điều lệ được ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, thể hiện khả năng chịu trách nhiệm của doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng với khách hàng. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần lựa chọn mức vốn phù hợp với hoạt động kinh doanh, tránh trường hợp để mức vốn quá cao sẽ khó khăn khi thực hiện thủ tục giảm vốn. Ngoài ra, mức vốn điều lệ còn ảnh hưởng đến mức thuế môn bài phải nộp. Mức thuế môn bài áp dụng với doanh nghiệp trong năm 2018 là 2.000.000 đồng/năm đối với công ty có vốn điều lệ từ 10 tỷ trở xuống; 3.000.000 đồng/năm đối với công ty có mức vốn điều lệ trên 10 tỷ.
Thứ sáu, lưu ý về người đại diện theo pháp luật của công ty:
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức khác. Theo quy định hiện hành thì công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn có thể có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật. Một người có thể đồng thời là người đại diện của một hay nhiều công ty khác. Chức danh của người đại diện theo pháp luật của công ty bao gồm: Tổng giám đốc, Giám đốc, Chủ tịch Hội đồng thành viên (đối với công ty TNHH), Chủ tịch Hội đồng quản trị (Đối với công ty cổ phần).
Doanh nghiệp cần lưu ý, trong trường hợp người đại diện của một công ty đang bị treo mã số thuế thì không đồng thời được làm người đại diện cho doanh nghiệp khác.
Dưới đây là video giới thiệu về Công ty Luật TNHH SB LAW. Mời quý vị đón xem: