Việc khống chế “trần” tổng chi phí lãi vay trở nên bất cập?

Nội dung bài viết

Việc áp đặt một “trần” tổng chi phí lãi vay là một biện pháp quản lý tài chính được nhiều quốc gia và tổ chức tài chính áp dụng để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tài chính. Tuy nhiên, quan điểm về việc này không đồng nhất, và có nhiều người cho rằng nó có thể trở nên bất cập và có tác động tiêu cực đến thị trường tài chính và nền kinh tế nói chung.

Việc khống chế “trần” tổng chi phí lãi vay trở nên bất cập?

Đáng chú ý trong số này phải kể tới quy định khống chế chi phí lãi vay tại khoản 3 Điều 16 Nghị định 132/2020/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết, cụ thể Tổng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cộng chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ cộng chi phí khấu hao phát sinh trong kỳ của người nộp thuế. Tỷ lệ này có nghĩa nếu chi phí lãi vay vượt mức 30% tổng lợi nhuận thuần của doanh nghiệp thì khoản vượt đó không được tính vào chi phí hoạt động của đơn vị. Tỷ lệ này theo đánh giá là chưa phù hợp với thực tế tại Việt Nam - một nền kinh tế đang phát triển. Các doanh nghiệp nhiều lĩnh vực đều trong giai đoạn phát triển cần vốn, phải đi vay trong khi nền lãi suất cho vay ở mức cao.

Một trong những lý do khiến việc khống chế “trần” tổng chi phí lãi vay này trở nên bất cập là do nó giới hạn khả năng của doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn vốn và quản lý rủi ro tài chính của họ. Môi trường kinh doanh và tài chính thường xuyên trải qua biến động và biến cố khó lường. Việc áp đặt một trần tổng chi phí lãi vay có thể làm giảm khả năng thích ứng của các doanh nghiệp trước những thách thức và cơ hội mới. Sự cố định này có thể tạo ra áp lực không cần thiết cho doanh nghiệp. Khi có một trần tổng chi phí lãi vay, các doanh nghiệp sẽ phải tuân thủ theo mức giới hạn đó, điều này có thể làm hạn chế khả năng họ tối ưu hóa lợi nhuận thông qua việc tìm kiếm các cơ hội đầu tư có lợi suất cao hơn. Điều này có thể dẫn đến việc giảm sức hấp dẫn của thị trường tài chính và làm giảm động lực cho các nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, việc khống chế một “trần” tổng chi phí lãi vay cũng có thể tạo ra một sự không cân bằng trong thị trường tài chính. Các doanh nghiệp và ngân hàng có quy mô lớn có thể dễ dàng tuân thủ theo trần này, nhưng đối với các doanh nghiệp nhỏ và mới thành lập, việc này có thể tạo ra rào cản lớn trong việc tiếp cận vốn. Điều này có thể ảnh hưởng đến sự đa dạng và sự cạnh tranh trong thị trường tài chính, tạo ra ưu thế không công bằng giữa các doanh nghiệp nhỏ hoặc mới thành lập so với các doanh nghiệp lớn và có nguồn lực.

Ngoài ra, việc áp đặt một “trần” tổng chi phí lãi vay cũng phải tính đến sự khác biệt giữa các ngành công nghiệp. Các ngành có chi phí vốn cao hơn, chẳng hạn như ngành công nghiệp sản xuất, có thể gặp khó khăn hơn trong việc thu hút vốn đầu tư nếu cố định một mức “trần” cố định không linh hoạt như vậy.

Mục tiêu chính của việc áp đặt trần tổng chi phí lãi vay là để bảo vệ người vay và ngăn chặn sự lạm dụng từ phía các tổ chức tài chính, nhưng cần phải xem xét cẩn thận về cách thức thực hiện nó. Việc thiết lập các quy tắc linh hoạt và có thể điều chỉnh tùy thuộc vào tình hình thị trường và kinh tế cụ thể có thể là một giải pháp. Điều này sẽ giúp duy trì sự cân bằng giữa việc bảo vệ người vay và đảm bảo tính linh hoạt của thị trường tài chính.

Tóm lại, quan điểm về việc khống chế trần tổng chi phí lãi vay trở nên bất cập cần được xem xét một cách kỹ lưỡng. Mặc dù việc này có thể mang lại những lợi ích trong việc kiểm soát rủi ro tài chính, nhưng cũng cần phải cân nhắc đến những hậu quả tiêu cực và ảnh hưởng không mong muốn mà nó có thể mang lại, đặc biệt là trong bối cảnh thị trường tài chính đang thay đổi không ngừng.

Việc khống chế trần tổng chi phí lãi vay trở nên bất cập
Việc khống chế trần tổng chi phí lãi vay trở nên bất cập

Về việc đề nghị gia hạn hiệu lực Điều 3 Nghị định 08/2023/NĐ-CP thêm 12 tháng

Kể từ ngày 05/3/2023 - khi Nghị định số 08/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung và ngưng hiệu lực thi hành một số điều tại các nghị định quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế có hiệu lực, việc thi hành Nghị định 08/2023/NĐ-CP đã đạt được một số kết quả rất thiết thực, tháo gỡ phần nào khó khăn cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói chung, nhất là thị trường trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ và các doanh nghiệp phát hành trái phiếu, trong đó có các doanh nghiệp bất động sản. Góp phần củng cố niềm tin vào thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tháo gỡ được vướng mắc, ách tắc về "đầu vào" của doanh nghiệp phát hành trái phiếu và nhất là cho "đầu ra" của thị trường trái phiếu khi tạo điều kiện thuận lợi hơn để nhà đầu tư cá nhân tham gia đầu tư trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ.  Nhiều khó khăn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp nói chung đã được tháo gỡ, qua đó góp phần hỗ trợ cho nền kinh tế và thị trường bất động sản dần phục hồi trở lại.

Theo Điều 3 Nghị định số 08/2023/NĐ-CP, ngưng hiệu lực thi hành đối với các quy định sau đây tại Nghị định số 65/2022/NĐ-CP đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2023

  • Xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân tại điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 6 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP;
  • Quy định về thời gian phân phối trái phiếu của từng đợt phát hành tại khoản 7, khoản 8 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP;
  • Quy định về kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu tại điểm e khoản 2 Điều 12 Nghị định số 153/2020/NĐ-CP được sửa đổi tại khoản 9 Điều 1 Nghị định số 65/2022/NĐ-CP.

Quy định trên chỉ kéo dài đến hết ngày 31/12/2023 mà trong khi đó, quý IV của năm 2023 là giai đoạn cao điểm đáo hạn trái phiếu của cả năm 2023 với tổng giá trị lên đến 65.500 tỷ đồng Đến năm 2024, giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn sẽ được coi là năm cao điểm nhất trong ba năm gần đây nên rất cần thiết tiếp tục thực hiện đầy đủ các quy định của Nghị định số 08/2023/NĐ-CP trong năm 2024 sắp tới.

Đồng thời, để từng bước xây dựng hoàn thiện thị trường trái phiếu doanh nghiệp nước ta dần tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế như việc xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là cá nhân hoặc phải có kết quả xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp phát hành trái phiếu thì cần phải có thời gian và thông qua một quá trình chuyển đổi phù hợp. Do đó, đề xuất gia hạn Điều 3 Nghị định 08/2023/NĐ-CP thêm 12 tháng đến hết ngày 31/12/2024, thay vì đến hết ngày 31/12/2023 là phù hợp với tình hình thực tế.

0/5 (0 Reviews)

Bài viết liên quan