Câu hỏi: Doanh nghiệp chúng tôi hiện có ngành nghề kinh doanh dịch vụ vận tải hàng hóa bằng đường bộ và cho thuê xe bao gồm lái xe.
Các xe kinh doanh hoạt động phục vụ khách hàng tại hầu hết các tỉnh/ thành phố trên cả nước. DN đang thực hiện bàn giao xe cho lái xe (có ký Hợp đồng lao động) tự quản lý và vận hành xe phục vụ khách hàng (có biên bản bàn giao ghi rõ tình trạng xe khi lái xe nhận xe và khi bàn giao lại xe cho công ty trước khi nghỉ việc).
Việc bàn giao xe cho lái xe căn cứ vào Biên bản thỏa thuận về việc giao nhận, quản lý và sử dụng tài sản trong đó có quy định mức đặt cọc đối với từng đối tượng lái xe. Cụ thể đối với lái xe tổng tải trọng dưới 5 tấn mức đặt cọc là 5.000.000 đồng và mức đặt cọc đối với lái xe tổng tải trọng trên 7 tấn là 15.000.000 đồng.
Mức đặt cọc trên nhằm đảm bảo lái xe có trách nhiệm quản lý và sử dụng xe an toàn, đúng quy định của công ty và sẽ được hoàn trả lại đủ khi lái xe nghỉ việc nếu không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với tài sản (xe) mà công ty đã giao cho.
Vậy nhờ SBLAW cho hỏi: trường hợp trên DN thu tiền đặt cọc có đúng luật hay không?
Đính kèm là các mẫu: Biên bản thỏa thuận về việc giao nhận, quản lý và sử dụng tài sản (mẫu 1); Biên bản bàn giao xe (sử dụng khi công ty bàn giao cho lái xe lúc lái xe nhận việc và lái xe bàn giao xe lại cho công ty lúc lái xe nghỉ việc) (mẫu 2).
Luật sư trả lời: Về câu hỏi của DN, SB Law có ý kiến tư vấn như sau:
Trong trường hợp của DN, việc thu tiền đặt cọc từ lái xe được thực hiện nhằm bảo đảm quản lý và đối tượng sử dụng tài sản là xe ô tô do công ty giao. Hình thức đặt cọc này được quy định cụ thể trong Biên bản thỏa thuận về việc giao nhận, quản lý và sử dụng tài sản giữa công ty và lái xe - biên bản này vẫn thuộc phạm vi của việc thực hiện hợp đồng lao động.
Theo Điều 328 Bộ luật Dân sự năm 2015, "Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc các vật có giá trị khác (gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn đế bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng". Nếu bên nhận đặt cọc vi phạm nghĩa vụ, khoản tiền đặt cọc có thể được sử dụng để bồi thường. SB Law hiểu rằng DN áp dụng khoản tiền đặt cọc để bảo đảm việc lái xe quản lý và sử dụng xe đúng quy định, tránh gây thiệt hại cho tài sản của công ty. Tuy nhiên việc đặt cọc này chỉ áp dụng trong phạm vi các giao dịch dân sự nói chung.
Theo khoản 2 Điều 17 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định người sử dụng lao động không được yêu cầu người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm tài chính khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động (trường hợp này là đặt cọc). SB Law nhận thấy rằng khoản đặt trong biên bản thỏa thuận (mẫu 1) được đính kèm, được áp dụng đồng thời với các điều kiện trong hợp đồng lao động (như điều kiện để lái xe được làm việc hoặc nhận xe) có nguy cơ vi phạm điều luật này.
Dựa trên các phân tích trên, SB Law nhận định rằng hình thức thu đặt cọc hiện tại của DN là không đúng theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo điểm b, khoản 2, điều 9 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động.