Sau hơn một năm tham vấn ý kiến các bộ, ngành, Bộ Công Thương đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên quy định về tiêu chí dán mác "made in Vietnam" cho hàng sản xuất trong nước lưu thông nội địa. Theo đó, hàng hóa của Việt Nam gồm hàng thuần túy sản xuất trong nước (khoáng sản, cây trồng, vật nuôi...) và hàng hóa không có xuất xứ thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam.

Trường hợp hàng có xuất xứ không thuần túy được xác định dựa trên các tiêu chí về chuyển đổi mã số hàng hóa (mã HS), hoặc hàm lượng giá trị gia tăng dựa trên các yếu tố như nguyên liệu đầu vào, chi phí sản xuất, chi phí nhân công, chi phí nhà xưởng...

Xung quanh vấn đề này, Diễn đàn Doanh nghiệp có cuộc trò chuyện với Luật sư Lương Văn Chương - Đoàn Luật sư TP Hồ Chí Minh.

-Ông có đánh giá như thế nào về các quy định tại dự thảo lần này?

Trước tiên, phải khẳng định rằng, quyết định này dù muộn nhưng cũng thể hiện những nỗ lực của cơ quan quản lý nhà nước trong việc đưa ra một bộ tiêu chí xác định thế nào là Made in Vietnam.

Dự thảo Thông tư của Bộ Công Thương quy định về cách xác định sản phẩm, hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam có 4 Chương, 16 Điều, được xây dựng chủ yếu dựa trên các bộ quy tắc xuất xứ hiện đang áp dụng cho hàng xuất khẩu từ Việt Nam, trong đó có Nghị định số 31/2018/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Quản lý ngoại thương về xuất xứ hàng hóa.

Dự thảo đã đưa ra được các khái niệm cụ thể hơn về thế nào là “hàng hóa của Việt Nam”, sản phẩm như thế nào được coi là “sản phẩm Việt Nam” hay “sản xuất tại Việt Nam”.

Điều đó đã phần nào giúp các tổ chức, cá nhân có căn cứ để thực hiện đúng yêu cầu của Nghị định 43/2017/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa, giúp loại bỏ các trường hợp vô tình hay cố tình vi phạm thông tin về nước xuất xứ.

Các doanh nghiệp chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc “gian lận xuất xứ”, tránh được các rủi ro và mất uy tín với người tiêu dùng.

-Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng những quy định trong Dự thảo lần này vẫn còn chung chung, thưa ông?

Đúng là như vậy. Dự thảo vẫn chưa quy định chặt chẽ, rõ ràng về các tiêu chí cho việc xác định hàng hóa thế nào là Made in Vietnam. Cụ thể:

Thứ nhất, Điều 8 Chương III Thông tư quy định về hàng hóa có xuất xứ thuần túy chỉ nói về các hàng hóa mà đã có mặt ở Việt Nam nuôi trồng, đánh bắt, chiết xuất, … từ Việt Nam. Trường hợp sản phẩm được lên ý tưởng, thiết kế bởi người Việt, doanh nghiệp Việt Nam nhưng các linh kiện phải lấy từ các nước khác nhập 100% thì có được ghi xuất xứ Việt Nam không? Sản phẩm này chỉ cần lấy các linh kiện nước ngoài về lắp ráp đơn giản, gia công các bước cuối cùng là ra sản phẩm hoàn chỉnh thì có được coi là sản phẩm Việt Nam không?

Tại Mỹ, theo quy định của Ủy ban Thương mại liên bang (FTC), một loại hàng hóa có thể được dán nhãn “Made in USA” phải đáp ứng các tiêu chí rất nghiêm ngặt. Theo đó, tất cả chi tiết, công đoạn chế tạo quan trọng của sản phẩm này đều phải có nguồn gốc từ Mỹ. Yếu tố nước ngoài trong sản phẩm chỉ được bao gồm các bộ phận không quan trọng và chiếm tỷ lệ không đáng kể. Tuy nhiên trong trường hợp mua sắm chính phủ, tiêu chuẩn “Made in USA” sẽ được nới lỏng. Theo đó, chỉ cần 50% linh kiện trở lên được làm tại Mỹ là đủ để đáp ứng yêu cầu.

Thứ hai, Điều 10 Chương III quy định các sản phẩm gia công, chế biến đơn giản, hàng hóa không có xuất xứ Việt Nam, nếu chỉ trải qua một hoặc kết hợp nhiều công đoạn thì không được coi là hàng hóa của Việt Nam.

Nhưng dự thảo thông tư không quy định trường hợp này thì sẽ ghi xuất xứ hàng hóa của ai? Ví dụ như cái đèn led được lắp ráp tại Việt Nam với nhiều vật liệu, linh kiện của các nước khác nhau nhưng không được ghi xuất xứ Việt Nam vì nó chỉ lắp ráp đơn giản thì ghi xuất xứ như thế nào?

Bởi vậy cần có các quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết hơn để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và những doanh nghiệp chân chính, hạn chế tình trạng doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở này để trục lợi.

Bộ Công Thương đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên quy định về tiêu chí "made in Vietnam" cho hàng sản xuất trong nước lưu thông nội địa.

-Ngoài ra, một vấn đề gây tranh cãi tại Dự thảo lần này là công thức tính hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

Vấn đề cần làm rõ nhất tại dự thảo lần này chính là công thức tính hàm lượng giá trị gia tăng (VAC). Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải tiến hành nghiên cứu kỹ khi đưa ra các giải thích về các thuật ngữ, các cấu thành trong công thức tính VAC. Ví dụ: “Trị giá nguyên liệu đầu vào có xuất xứ Việt Nam” bao gồm trị giá của nguyên liệu mua của nhà sản xuất trong nước hoặc do tổ chức, cá nhân tự sản xuất; chi phí nhân công trực tiếp, chi phí phân bổ trực tiếp, các chi phí khác và lợi nhuận. Vậy các chi phí nhà xưởng, khấu hao nhà xưởng, thiết kế có được tính hay không cần phải quy định rõ.

Việc lượng hóa các chi phí đầu vào để xác định tỷ lệ 30% để gắn mác xuất xứ Việt Nam là điều khó làm và quá phức tạp. Giả sử một sản phẩm nông sản, doanh nghiệp nhập giống từ Trung Quốc, mua phân bón từ Nhật Bản, thuốc trừ sâu của Mỹ... thì đầu vào tính 30% thế nào?

Hơn nữa, nếu chỉ quy định 30% giá trị hàng hóa có xuất xứ nội địa, nhiều doanh nghiệp sẽ dễ dàng “qua mặt” các cơ quan chức năng trong việc dán nhãn Việt Nam.

Ngoài ra, theo dự thảo những sản phẩm có hàm lượng VAC lớn hơn 30% được ghi Made in Vietnam, vậy những hàng hóa có hàm lượng VAC nhỏ hơn 30% thì được ghi dán nhãn như thế nào? Do đó, thiết nghĩ, dự thảo cần phải làm rõ hơn nữa để doanh nghiệp dễ áp dụng, và bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng.

-Về tiêu chí Made in Vietnam, theo ông, chúng ta nên xác định những sản phẩm này như thế nào?

Theo dự thảo do Bộ Công Thương đưa ra, sản phẩm được dán nhãn hàng hóa của Việt Nam hoặc sản xuất tại Việt Nam (gọi chung là hàng hóa của Việt Nam) nếu có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam, như cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng, khoáng sản, ... Trường hợp hàng hóa không được sản xuất toàn bộ tại Việt Nam nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng và đảm bảo 2 tiêu chí về chuyển đổi mã số (mã HS) và hàm lượng giá trị gia tăng... thì được coi là hàng hóa của Việt Nam. Cách xác định hàm lượng giá trị gia tăng được xác định theo 2 công thức gián tiếp hoặc trực tiếp.

Để xác định rõ hơn điều này, Bộ Công Thương đưa ra phụ lục kèm theo cụ thể từng mặt hàng với mã HS khác nhau để xác định tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa với phần lớn các sản phẩm này có tỷ lệ phải đạt mức 30% trở lên. Ngoài ra, các sản phẩm còn phải vượt qua khâu gia công đơn giản như phân loại, thay đổi bao bì đóng gói, dán nhãn sản phẩm, ... mới được gọi là hàng Việt.

Để thực hiện những quy định này, chúng ta cần có một cơ chế, đội ngũ có chuyên môn cao đồng thời áp dụng khoa học, kĩ thuật phục vụ giám định, kiểm tra chất lượng hàng hóa, phục vụ cho việc ghi nhãn để những hàng hóa này được lưu thông trên thị trường đúng với pháp luật, đúng với xuất xứ của nó.

-Trân trọng cảm ơn Luật sư !

Dẫn nguồn

https://enternews.vn/du-thao-tieu-chi-made-in-vietnam-qua-chung-chung-155461.html?fbclid=IwAR1QliD6R72MvHh331EfTrDCiEnWiI39x6SEZmauI75bZGytFeogM-igMEo