Câu hỏi: Công ty tôi và đối tác thực hiện giao dịch, ký kết hợp đồng thông qua hơp đồng điện tử. Khi công ty tôi gửi yêu cầu thanh toán bằng mã hóa điện tử đến đối tác và gia hạn thời gian thanh toán là 03 ngày kể từ khi nhận được yêu cầu thanh toán bằng điện tử của công ty tôi. Tuy nhiên sau 03 ngày, công ty tôi không nhận được bất cứ thông báo phản hồi gì về việc thanh toán cũng như khoản tiền. Sau đó hai bên chúng tôi phải trực tiếp gặp nhau để đàm phán. Đối tác lấy lí do là chưa nhận được thông báo để trì hoãn nghĩa vụ thanh toán. Vậy cho tôi hỏi Luật sư, thời điểm mà đối tác tôi nhận được yêu cầu thanh toán là khi nào, việc viện dẫn để trì hoãn như trên là đúng hay không? Tôi xin cảm ơn luật sư.
Trả lời: Công ty Luật TNHH SB LAW cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. Liên quan đến thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:
Căn cứ theo khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử 2005, thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử.
Từ đây, có thể thấy yêu cầu thanh toán của bạn là một thông điệp dữ liệu mà thể hiện qua hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. (Điều 10 Luật GDĐT 2005). Thông điệp yêu cầu của bạn không bị phủ nhận giá trị pháp lý
Về việc nhận được yêu cầu thanh toán: Cũng theo khoản 2 Điều 18 tại Luật Giao dịch điện tử 2005, đối tác của bạn được coi là đã nhận được yêu cầu thanh toán trong trường hợp:
- Nếu bên bạn thông báo kèm theo thông điệp rằng thông báo đó chỉ có hiệu lực khi bên đối tác xác nhận thì bên đối tác của bạn phải xác nhận yêu cầu đó mới phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Trường hợp công ty bạn gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo xác nhận thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi xác nhận; nếu đối tác vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời gian đã ấn định thì công ty bạn có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.
Do vậy cần phải xem xét xem công ty bạn có ra tuyên bố rằng bên đối tác có phải xác nhận về việc đã nhận được yêu cầu hay chưa.
Ngoài ra theo Điều 18 Người nhận được xem là đã nhận được thông điệp dữ liệu nếu thông điệp dữ liệu được nhập vào hệ thống thông tin do người đó chỉ định và có thể truy cập được. Do vậy để xác minh xem đối tác đã nhận được yêu cầu thanh toán hay chưa, cần yêu cầu họ chứng minh rằng trên cơ sở hệ thống thông tin của họ chưa hề nhận được thông báo thanh toán.