Sửa luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng nào?

Nội dung bài viết

Sửa luật thuế thu nhập doanh nghiệp theo hướng nào?

Luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch SBLAW có phần trao đổi về việc sửa đổi luật doanh nghiệp trên truyền thông, mời các bạn xem nội dung tại đây:

Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) – đóng vai trò không nhỏ trong việc định hướng đầu tư, thúc đẩy sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ vận hành, hệ thống ưu đãi thuế hiện hành đang bộc lộ nhiều điểm nghẽn, từ tư duy “ưu đãi đại trà”, thiếu gắn kết với hiệu quả đầu ra đến tình trạng DN lợi dụng chính sách để tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế thay vì tối đa hóa đóng góp cho xã hội.

Trước thực tế này, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15 với nhiều định hướng đột phá về cơ chế, chính sách tài khóa – ngân sách, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến tính đổi mới, phân loại, và hậu kiểm hiệu quả trong ưu đãi thuế.

Câu 1: Hiện nay, Luật Thuế Thu nhập DN đang có những quy định ưu đãi ra sao? Ông đánh giá thế nào về mức độ “cào bằng" trong chính sách ưu đãi hiện hành?

Trả lời: Dựa trên các quy định tại liên quan đến thuế tại Điều 10 Nghị quyết 198/2025/QH15, ta có thể nhìn nhận thấy thuế thu nhập doanh nghiệp đang được ưu đãi như sau:

Doanh nghiệp (DN) khởi nghiệp sáng tạo, quỹ đầu tư, tổ chức hỗ trợ và đặc biệt là các chuyên gia, nhà khoa học. Miễn, giảm thuế TNDN (cho tổ chức) và thuế TNCN (cho cá nhân) trong giai đoạn đầu (tổng cộng 6 năm).

Chính sách này không ưu đãi cho mọi doanh nghiệp, mà chỉ dành riêng cho các chủ thể trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo. Việc ưu đãi thuế cho cả lương của chuyên gia, nhà khoa học là một bước đi đột phá, trực tiếp giải quyết bài toán "chảy máu chất xám" và thu hút nhân lực chất lượng cao – yếu tố sống còn của các DN khởi nghiệp công nghệ.

Ngoài ra, miễn thuế hoàn toàn đối với thu nhập từ việc chuyển nhượng vốn góp vào DN khởi nghiệp sáng tạo. Đây là một đòn bẩy tài chính cực kỳ mạnh mẽ. Nó đánh thẳng vào lợi ích của các nhà đầu tư (cả cá nhân và tổ chức). Bằng cách miễn thuế cho "lợi nhuận đầu ra", chính sách này làm cho việc đầu tư vào startup trở nên hấp dẫn hơn rất nhiều, từ đó khơi thông dòng vốn mạo hiểm vào lĩnh vực mà quốc gia đang cần ưu tiên.

Tóm lại, nếu các quy định ưu đãi thuế TNDN trước đây bị đánh giá là "cào bằng" và thiếu hiệu quả, thì các chính sách được nêu trong văn bản này chính là câu trả lời và là giải pháp để khắc phục những điểm nghẽn đó. Đây là một khung pháp lý hiện đại, có chọn lọc, tập trung vào chất lượng và hiệu quả đầu ra thay vì chỉ tập trung vào việc thu hút đầu tư bằng mọi giá.

 

Câu 2: Theo ông, đâu là nguyên nhân chính khiến chính sách ưu đãi thuế đôi khi chưa phản ánh đúng năng lực tạo giá trị gia tăng, đóng góp ngân sách hay tạo việc làm của DN?

Trả lời:  Nguyên nhân chính khiến chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đôi khi chưa phản ánh đúng năng lực tạo giá trị gia tăng, đóng góp ngân sách hay tạo việc làm của doanh nghiệp nằm ở tư duy thiết kế chính sách thiên về hình thức đầu vào, thiếu cơ chế đánh giá hiệu quả đầu ra thực tế. Có thể phân tích rõ hơn qua một số góc độ sau:

Thứ nhất, chính sách ưu đãi được xây dựng chủ yếu dựa trên tiêu chí tiềm năng thay vì kết quả. Các tiêu chí để được hưởng ưu đãi thường là doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực ưu tiên, địa bàn khó khăn, hoặc có hình thức đầu tư mới – những yếu tố mang tính hình thức, chưa phản ánh hiệu quả thực tế sau khi dự án đi vào vận hành. Do đó, có không ít trường hợp doanh nghiệp đăng ký dự án trong lĩnh vực được ưu đãi nhưng không triển khai nghiêm túc, hoặc hiệu quả đóng góp kinh tế – xã hội thấp, dẫn đến chính sách bị lạm dụng.

Thứ hai, thiếu cơ chế hậu kiểm và điều chỉnh linh hoạt ưu đãi. Hiện nay, nhiều chính sách ưu đãi được cấp cố định ngay từ khi cấp phép đầu tư, ít có cơ chế điều chỉnh dựa trên kết quả thực tế mà doanh nghiệp đạt được. Điều này khiến doanh nghiệp có thể không thực hiện đầy đủ các cam kết ban đầu (về tạo việc làm, chuyển giao công nghệ,…), nhưng vẫn tiếp tục được hưởng ưu đãi.

Thứ ba, còn hạn chế trong khả năng giám sát và phân tích dữ liệu doanh nghiệp. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước hiện chưa đủ công cụ, nhân lực và cơ sở dữ liệu để theo dõi sát hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau khi nhận ưu đãi. Điều này khiến việc đánh giá mức độ đóng góp vào ngân sách, giá trị gia tăng hay số việc làm tạo ra gặp nhiều khó khăn, đặc biệt với các doanh nghiệp FDI hoặc hoạt động trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thứ tư, sự thiếu phân biệt giữa các nhóm doanh nghiệp. Chính sách ưu đãi thuế hiện hành nhiều khi không có sự phân loại rõ ràng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ. Hậu quả là có những doanh nghiệp lớn, tiềm lực mạnh, khả năng đóng góp cao nhưng được hưởng ưu đãi giống như doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi lại có những DN nhỏ thực sự cần hỗ trợ thì lại khó tiếp cận chính sách do thiếu năng lực đáp ứng các điều kiện đầu tư chuẩn hóa.

Tóm lại, chính sách ưu đãi thuế TNDN chưa phản ánh đúng năng lực tạo giá trị gia tăng và đóng góp của doanh nghiệp chủ yếu do tư duy thiết kế còn nặng về điều kiện đầu vào, thiếu cơ chế giám sát – hậu kiểm hiệu quả, và chưa có hệ thống dữ liệu minh bạch, đầy đủ để phân loại và đánh giá đúng thực chất từng đối tượng. Việc chuyển hướng sang chính sách ưu đãi dựa trên kết quả đầu ra là cần thiết để nâng cao hiệu quả và công bằng trong phân bổ nguồn lực.

 

Câu 3: Có ý kiến cho rằng, việc áp dụng ưu đãi thuế đại trà đang khiến ngân sách “thất thu kép” – vừa giảm thu, vừa tạo ra cạnh tranh không lành mạnh. Quan điểm của ông thế nào về nhận định này?

Trả lời:  Thứ nhất, chính sách ưu đãi thuế TNDN trong suốt hơn một thập kỷ qua phần lớn được thiết kế theo tư duy ưu đãi theo diện rộng, thiếu phân loại, chưa thực sự gắn chặt với hiệu quả đầu ra hoặc mức độ đóng góp thực tế của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến việc ngân sách nhà nước bị giảm thu trực tiếp, nhưng đổi lại, hiệu quả kinh tế – xã hội mang lại không tương xứng, thậm chí còn bị méo mó do dòng vốn đổ vào các lĩnh vực chỉ để “săn ưu đãi”, thay vì đầu tư thực chất.

Thứ hai, việc không kiểm soát chặt chẽ khâu hậu kiểm và thiếu các tiêu chí định lượng rõ ràng về hiệu suất đầu tư, giá trị gia tăng nội địa, hoặc chuyển giao công nghệ khiến nhiều doanh nghiệp lợi dụng chính sách để cơ cấu lại hoạt động kinh doanh, phân tán lợi nhuận, chuyển giá, từ đó tối thiểu hóa nghĩa vụ thuế hợp pháp thay vì đóng góp bền vững cho ngân sách và nền kinh tế.

Thứ ba, ưu đãi đại trà còn tạo ra môi trường cạnh tranh không công bằng, đặc biệt giữa doanh nghiệp cũ và mới, giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp trong nước không được hưởng cùng mức ưu đãi, dẫn tới mất cân đối trong phát triển khu vực tư nhân nội địa, ảnh hưởng tiêu cực đến mục tiêu dài hạn về tự lực tự cường nền kinh tế.

Việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 198/2025/QH15, với định hướng đổi mới mạnh mẽ trong cơ chế ưu đãi thuế theo hướng có chọn lọc, phân loại rõ ràng, gắn với hiệu quả và tăng cường hậu kiểm, là hoàn toàn đúng đắn và cấp thiết. Điều này không chỉ giúp nâng cao tính minh bạch, công bằng trong chính sách thuế, mà còn góp phần định hướng lại dòng vốn đầu tư vào những lĩnh vực thực sự tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế.

Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và yêu cầu quản trị ngân sách ngày càng khắt khe, chuyển từ “ưu đãi đại trà” sang “ưu đãi có điều kiện, có giám sát” là bước đi tất yếu, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội được cân bằng một cách bền vững.

 

Câu 4: Theo ông, cần bổ sung hoặc điều chỉnh những điều khoản nào để khuyến khích DN phát triển bền vững, thay vì chỉ nhắm vào ưu đãi thuế ngắn hạn? 

Trả lời:  Để khuyến khích doanh nghiệp phát triển bền vững thông qua các chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp theo tinh thần của nghị quyết 198/2025/QH15 đã đề ra nhiều chính sách quan trọng nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ tài chính, thuế và phát triển bền vững cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và các dự án xanh. Tuy nhiên nghị quyết vẫn chưa đi sâu vào việc gắn ưu đãi thuế với các mục tiêu dài hạn như phát triển bền vững (ESG) hoặc cơ chế đánh giá hiệu quả đầu ra, điều này có thể dẫn đến nguy cơ lạm dụng chính sách hoặc ưu đãi không hiệu quả như mong muốn. Dựa trên nghị quyết và mục tiêu phát triển bền vững, tôi đề xuất các điều khoản cần bổ sung hoặc điều chỉnh như sau.

Thứ nhất, gắn ưu đãi thuế với tiêu chí phát triển bền vững cụ thể là bổ sung vào Điều 10 điều khoản ưu đãi thuế bổ sung cho doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ESG, ví dụ miễn thuế TNDN thêm 1 năm (tổng cộng 3 năm) và giảm 50% trong 3 năm tiếp theo (thay vì 4 năm) cho DN chứng nhận giảm phát thải carbon hoặc sử dụng năng lượng tái tạo hoặc khấu trừ gấp đôi chi phí đầu tư vào các dự án xanh (ví dụ: xử lý rác thải, sản xuất bền vững) khi tính thuế TNDN. Điều này khuyến khích doanh nghiệp đầu tư dài hạn vào môi trường và xã hội thay vì chỉ tận dụng ưu đãi ngắn hạn.

Thứ hai, phân loại ưu đãi thuế dựa trên hậu quả đầu ra bằng cách điều chỉnh Điều 10, khoản 4 thay vì miễn thuế TNDN 3 năm cho toàn bộ doanh nghiệp nhỏ và vừa, chỉ áp dụng ưu đãi này cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa đạt các chỉ số cụ thể, như tạo thêm ít nhất 10 việc làm mới/năm hoặc tăng trưởng doanh thu tối thiểu 15%/năm. Bổ sung yêu cầu doanh nghiệp báo cáo hiệu quả đầu ra (số việc làm, doanh thu, tác động xã hội) hàng năm để duy trì ưu đãi. Điều này giúp tránh tình trạng ưu đãi đại trà và đảm bảo nguồn lực tập trung vào doanh nghiệp có đóng góp thực sự.

Thứ ba, tăng cường cơ chế hậu kiểm hiệu quả bằng cách bổ sung vào Điều 4 là thêm quy định cụ thể về việc đánh giá hậu kiểm sau khi hưởng ưu đãi thuế, chẳng hạn doanh nghiệp phải nộp báo cáo định kỳ (hàng năm) về việc sử dụng ưu đãi thuế và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Nếu không đạt yêu cầu, ưu đãi sẽ bị thu hồi hoặc chuyển sang chế độ giám sát đặc biệt. Sự bổ sung này sẽ tăng tính minh bạch và trách nhiệm, đồng thời ngăn chặn việc lạm dụng chính sách.

Những cải cách này không chỉ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các giá trị lâu dài như công nghệ xanh, chuyển đổi số, và trách nhiệm xã hội, mà còn đảm bảo nguồn lực nhà nước được sử dụng hiệu quả, tránh thất thoát do ưu đãi không đúng mục đích. Việc cụ thể hóa các chính sách này, đặc biệt trong thời hạn rà soát pháp luật đến ngày 31/12/2025, sẽ là chìa khóa để tạo động lực cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành trụ cột vững chắc, góp phần xây dựng một nền kinh tế Việt Nam bền vững, cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

 

Câu 5: Theo ông, liệu có nên bổ sung cơ chế “đánh giá lại” ưu đãi thuế định kỳ 3-5 năm/lần để loại bỏ các DN thụ hưởng mà không có đóng góp tương xứng?

Trả lời:  Việc bổ sung cơ chế “đánh giá lại” ưu đãi thuế theo chu kỳ 3–5 năm là hoàn toàn cần thiết và rất đáng được đưa vào hệ thống pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Đây không chỉ là một giải pháp kỹ thuật mà còn là một bước chuyển quan trọng từ ưu đãi cấp phát một lần sang ưu đãi có điều kiện, có kiểm chứng và có loại trừ.

Thứ nhất, cơ chế này giúp sàng lọc doanh nghiệp một cách công bằng, dựa trên kết quả thực chất. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế nhưng sau một thời gian hoạt động lại không tạo ra những giá trị như đã cam kết: ít tạo việc làm, không nâng cao năng suất, đóng góp ngân sách thấp, thậm chí có dấu hiệu chuyển giá. Nếu không có cơ chế đánh giá lại, những doanh nghiệp này vẫn tiếp tục được hưởng ưu đãi, gây thất thoát nguồn thu và tạo ra bất công so với các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhưng không được ưu đãi tương đương.

Thứ hai, đánh giá định kỳ tạo động lực để doanh nghiệp nỗ lực duy trì hiệu quả. Khi biết rằng việc tiếp tục được hưởng ưu đãi phụ thuộc vào kết quả định kỳ, doanh nghiệp sẽ chủ động nâng cao năng lực sản xuất, cải thiện hiệu quả sử dụng vốn, và tuân thủ các cam kết ban đầu. Điều này giúp chính sách ưu đãi phát huy đúng vai trò khuyến khích và dẫn dắt thay vì trở thành một món quà không điều kiện.

Thứ ba, cơ chế này góp phần tăng tính minh bạch và trách nhiệm trong quản lý nhà nước. Việc đánh giá lại giúp các cơ quan chức năng nắm rõ hơn hiệu quả thực tế của từng nhóm chính sách ưu đãi, từ đó có cơ sở điều chỉnh linh hoạt, kịp thời. Đồng thời, quy trình đánh giá công khai, có tiêu chí cụ thể sẽ hạn chế tình trạng xin – cho hay ưu đãi tràn lan, thiếu căn cứ.

Tóm lại, việc đánh giá lại ưu đãi thuế theo chu kỳ 3–5 năm là một bước đi đúng hướng, nhằm đảm bảo tính hiệu quả, công bằng và bền vững trong chính sách thuế. Nó vừa là “bộ lọc” giúp loại bỏ các doanh nghiệp lợi dụng chính sách, vừa là “bàn đạp” để khuyến khích những doanh nghiệp làm ăn thực chất tiếp tục đóng góp tích cực cho nền kinh tế.

 

Câu 6: Ông có khuyến nghị gì để chính sách thuế Việt Nam vừa hỗ trợ được DN, vừa tránh được hiện tượng lợi dụng ưu đãi thuế để chuyển giá, trốn thuế?

Trả lời:  Để chính sách thuế của Việt Nam vừa hỗ trợ hiệu quả cho doanh nghiệp, vừa ngăn chặn được hiện tượng lợi dụng ưu đãi để chuyển giá, trốn thuế, cần có những điều chỉnh đồng bộ từ tư duy thiết kế chính sách cho đến cơ chế thực thi và giám sát. Dưới đây là một số khuyến nghị trọng tâm, được trình bày thành các nhóm giải pháp cụ thể:

Thứ nhất, cần chuyển đổi tư duy từ ưu đãi đầu vào sang ưu đãi theo kết quả đầu ra. Hiện nay, nhiều chính sách thuế ưu đãi chỉ dựa trên điều kiện hình thức như lĩnh vực đầu tư, địa bàn khó khăn hoặc loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, những yếu tố này không đảm bảo doanh nghiệp sẽ tạo ra đóng góp thực chất. Thay vào đó, nên xem xét kết quả đầu ra cụ thể như số lượng việc làm tạo ra, mức đóng góp ngân sách, chuyển giao công nghệ hoặc bảo vệ môi trường. Cách tiếp cận này sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiêm túc, phát triển bền vững thay vì chỉ tìm cách tận dụng ưu đãi thuế.

Thứ hai, tăng cường cơ chế hậu kiểm và điều chỉnh ưu đãi theo thực tế triển khai. Chính sách ưu đãi thuế không nên cấp một lần, cố định trong toàn bộ vòng đời dự án mà cần được điều chỉnh linh hoạt theo từng giai đoạn dựa trên việc doanh nghiệp có thực hiện đúng các cam kết hay không. Nếu doanh nghiệp không đạt được các chỉ tiêu về đầu tư, lao động hay doanh thu như cam kết ban đầu, ưu đãi cần được thu hồi hoặc giảm dần. Điều này sẽ tạo áp lực tích cực để doanh nghiệp duy trì hiệu quả hoạt động và hạn chế tình trạng trục lợi chính sách.

Thứ ba, phân loại rõ các đối tượng thụ hưởng ưu đãi để đảm bảo công bằng và hiệu quả. Việc ưu đãi thuế hiện nay còn thiếu sự phân biệt giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước, giữa doanh nghiệp lớn và nhỏ, giữa ngành truyền thống và ngành công nghệ cao. Do đó, cần có cơ chế ưu đãi có chọn lọc, ưu tiên doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, công nghệ cao – những đối tượng thực sự cần sự hỗ trợ về chi phí để phát triển.

Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ hành vi chuyển giá và trốn thuế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp FDI. Cần tăng cường thanh tra các giao dịch liên kết, yêu cầu báo cáo lợi nhuận liên quốc gia, áp dụng nguyên tắc giá giao dịch độc lập, và có chế tài xử phạt mạnh đối với các hành vi chuyển giá. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các tập đoàn đa quốc gia có xu hướng dịch chuyển lợi nhuận về những nơi có thuế suất thấp nhằm giảm nghĩa vụ thuế tại Việt Nam.

Thứ năm, minh bạch hóa thông tin về chính sách và đối tượng được ưu đãi thuế. Việc công khai danh sách doanh nghiệp được hưởng ưu đãi, mức độ đóng góp thực tế vào ngân sách, hiệu quả sử dụng ưu đãi... sẽ giúp tăng tính giám sát của xã hội, giảm nguy cơ lạm dụng và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Cơ quan thuế và các bộ ngành liên quan cần phối hợp xây dựng hệ thống thông tin minh bạch, dễ tiếp cận cho công chúng và doanh nghiệp.

Cuối cùng, ứng dụng công nghệ số và tăng cường phối hợp liên ngành trong giám sát chính sách. Việc chia sẻ cơ sở dữ liệu giữa các cơ quan quản lý như Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, Tổng cục Thuế và địa phương sẽ giúp theo dõi hiệu quả thực tế của doanh nghiệp thụ hưởng ưu đãi. Đồng thời, cần đầu tư vào hệ thống phân tích dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để phát hiện rủi ro chuyển giá, trốn thuế, qua đó nâng cao năng lực quản lý hiện đại. Một chính sách thuế hiệu quả không chỉ là công cụ, mà còn là đòn bẩy để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Việt Nam cần chuyển từ ưu đãi dàn trải sang ưu đãi có điều kiện, có kiểm soát và dựa trên hiệu quả thực chất. Những điều chỉnh này sẽ tạo ra một môi trường đầu tư minh bạch, công bằng và bền vững – nơi doanh nghiệp phát triển gắn liền với trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ thuế.

Bài viết liên quan