Sửa đổi Luật Đất đai: Đã đến hồi cần bàn thảo quyết liệt

Nội dung bài viết

Sửa đổi Luật Đất đai là yêu cầu cấp bách cho không riêng một lĩnh vực nào mà trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; là yêu cầu cấp bách của nền kinh tế thị trường.

Lời tòa soạn

Luật Đất đai đã ra đời hơn 30 năm, với 5 lần sửa đổi, gần nhất là vào năm 2013. Giới nghiên cứu và doanh nghiệp cho rằng, sau 7 năm, Luật Đất đai 2013 đã lộ rõ nhiều bất cập, chồng chéo dẫn đến việc mập mờ trách nhiệm quản lý, khó khăn trong quá trình tổ chức, thực hiện. Hệ quả là quá trình chuyển dịch đất đai để đầu tư phát triển trở nên phức tạp, gây phiền hà cho doanh nghiệp, cản bước phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.

Quan trọng hơn, những kẽ hở đang tồn tại trong bộ luật này là mầm mống để tham nhũng, tiêu cực nảy nòi. Theo báo cáo của Thanh tra Chính phủ, số đơn khiếu nại về lĩnh vực đất đai tiếp tục chiếm đa số trong tổng số đơn khiếu nại. Trong đó tập trung chủ yếu vào các vấn đề như: Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; khiếu nại, tranh chấp đất đai có nguồn gốc là đất do nông, lâm trường quản lý, liên quan đến sử dụng đất an ninh, quốc phòng, việc chuyển đổi mô hình chợ truyền thống, khiếu kiện, tranh chấp tại các dự án bất động sản, thu phí tại các trạm BOT…

Thậm chí, các vụ án hình sự rúng động dư luận, cán bộ vi phạm pháp luật gây thất thoát lãng phí lớn cho tài sản Quốc gia cũng đều “chạm” đến đất đai. Phải chăng, chính những kẽ hở trong Luật Đất đai hiện hành đã và đang, trực tiếp hay gián tiếp gây nên những bất ổn ấy của xã hội?

Vấn đề sửa đổi Luật Đất đai đã được đưa ra bàn bạc nhiều lần. Nhưng cũng là từng ấy lần trì hoãn. Liệu có hay không việc né tránh trách nhiệm của các cơ quan soạn thảo? Có hay không sự thờ ơ của các ngành chức năng khi mà doanh nghiệp đã “than trời” bao năm? Đặc biệt, trong bối cảnh của một nền kinh tế đầy thách thức do tác động từ đại dịch lịch sử Covid-19, dường như đã đến lúc không thể chậm trễ hơn – cần bàn sâu rõ đến câu chuyện sửa đổi Luật Đất đai, bắt tay vào tháo gỡ những vướng mắc khốn cùng của doanh nghiệp, cũng như thẳng tay chặn đứng những kẽ hở tạo nên tham nhũng, tiêu cực, tạo động lực thúc đẩy và vực dậy nền kinh tế nước nhà.

Nói về việc sửa đổi Luật Đất đai, TS. Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh: “Tôi cho rằng Luật Đất đai phải được sửa đổi ngay, phải là luật đầu tiên được sửa đổi để tạo ra đột phá trong cải cách thể chế. Sắp tới đây, Đại hội Đảng sẽ nhấn mạnh đột phá trong cải cách thể chế là tập trung hoàn thiện thể chế phát triển các thị trường nhân tố sản xuất, nhất là thị trường quyền sử dụng đất, để các thị trường này đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực”.

Tiếp nối tinh thần trên, với mong muốn đưa ra nhiều góc nhìn nghiên cứu, phản biện, tranh luận, Reatimes khởi đăng Diễn đàn: Tác động của chính sách đất đai đến thị trường bất động sản.

Trân trọng giới thiệu với độc giả!

Luật Đất đai 2013 – Những bất cập “muôn năm cũ”

Sau nhiều năm ban hành, với việc sửa đổi liên tục và bản mới nhất là Luật Đất đai 2013 được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã có nhiều đóng góp quan trọng giúp ổn định các mối quan hệ về đất đai và quản lý sử dụng đất đai. Nhưng qua thực tiễn, với nhu cầu phát triển của đất nước, yêu cầu của hiện tại, Luật Đất đai 2013 đã bộc lộ không ít yếu kém bất cập, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, người dân và cả xã hội.

Tình trạng vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai diễn ra khá phổ biến. Tham nhũng, trục lợi và thất thoát nguồn thu ngân sách liên quan đến đất đai vẫn diễn ra… Nhiều địa phương, đơn vị do lãnh đạo thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý đã để xảy ra tình trạng lấn chiếm đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích, tự ý chuyển mục đích sử dụng, không đăng ký biến động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không thực hiện nghiêm các nghĩa vụ tài chính theo luật định…

Nhiều nơi dự án đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng không đưa vào sử dụng hay chậm đưa vào sử dụng, để lãng phí, hiệu quả thấp. Việc giao đất, cho thuê đất chủ yếu theo phương thức chỉ định, kể cả với những vị trí có lợi thế và khả năng sinh lợi. Có trường hợp định giá đất để tính thu nghĩa vụ chưa phù hợp, gây thất thu cho ngân sách. Cơ chế tạo quỹ đất để đấu giá chưa được quan tâm thực hiện… Những bức xúc từ thực tiễn áp dụng này cần phải được giải quyết thông qua hệ thống chính sách pháp luật đất đai để đảm bảo sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2013 là rất cần thiết.

Trong thời gian chờ đợi sửa đổi Luật Đất đai 2013, cần phải có thời gian chuyển tiếp, tức là phải có một văn bản hướng dẫn thực hiện dưới luật để hướng dẫn các doanh nghiệp thực thi.

Những vướng mắc của thị trường bất động sản nói chung và các doanh nghiệp bất động sản nói riêng đa phần đều xuất phát từ những hạn chế liên quan đến hành lang pháp lý mà trong đó Luật Đất đai đóng vai trò trung tâm. Những ách tắc do hạn chế từ Luật Đất đai gây ra cản trở rất lớn cho việc phát triển các dự án bất động sản.

Sửa đổi Luật Đất đai

Hệ thống pháp luật về đất đai chưa đồng bộ trong quá trình triển khai, điểm yếu nhất là công tác thực thi pháp luật và quy định về các điều kiện, cơ chế thực thi pháp luật của hệ thống văn bản dưới luật, thủ tục hành chính còn rườm rà, bất cập. Trách nhiệm và năng lực thi hành công vụ của một số cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước còn yếu. Điều đó khiến doanh nghiệp phải bỏ lỡ nhiều cơ hội đầu tư, cũng như hạn chế thu hút đầu tư tại mỗi tỉnh.

Hiện tại, chỉ số tiếp cận đất đai rất thấp và gây nhiều bức xúc cho các nhà đầu tư. Nhiều hướng dẫn từ cấp tỉnh về chính sách đền bù đến nay vẫn chưa hoàn thiện, dẫn đến các doanh nghiệp muốn tiếp cận đất đai, muốn có mặt bằng “sạch” phải đợi rất lâu.

Ví dụ, một doanh nghiệp muốn xây dựng nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp sẽ không còn… “cửa” vì doanh nghiệp chỉ được sử dụng đất có thời hạn. Doanh nghiệp không thể tiếp cận đất vô thời hạn dù họ chỉ có ý xây dựng nhà ở cho công nhân chứ không phải xây cho thuê. Tất cả những bất cập này bó buộc các quyền của doanh nghiệp, làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, gây lãng phí, lợi ích nhóm trong việc thu hồi đất, cấp, giao và cho thuê đất…

Vì vậy, để giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2013 một cách đồng bộ, thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành, tránh chồng chéo và cần phù hợp với thực tiễn vấn đề tiếp cận đất đai của doanh nghiệp.

Bất động sản là một lĩnh vực đặc thù, bị chi phối bởi rất nhiều luật liên quan, trong đó nền tảng là Luật Đất đai. Do đó, chính sách đất đai nói chung có tác động rất lớn đến sự tồn vong, phát triển của doanh nghiệp. Những bất cập của Luật Đất đai và các văn bản dưới luật là lỗ hổng rất lớn để các nhóm lợi ích lợi dụng, thao túng, tự tung tự tác. Biểu hiện cụ thể mà ai cũng biết, ai cũng thấy, đó là sự cấu kết giữa doanh nghiệp với những quan chức có thẩm quyền ký quyết định mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất. “Tệ nạn” này địa phương nào cũng có. Ở đâu đất càng có giá trị thương mại thì ở đó tình trạng càng trầm trọng.

Mới đây nhất là cuối tháng 4/2021, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội đã tuyên án tại phiên tòa xét xử sơ thẩm cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và 9 đồng phạm trong vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và “Vi phạm các quy định về quản lý đất đai” xảy ra tại Bộ Công Thương và TP.HCM. Bà Hồ Thị Kim Thoa (nguyên Thứ trưởng Bộ Công Thương) đã có hành vi đồng phạm giúp sức tích cực. Bà Thoa là người trực tiếp ký các văn bản hoặc tham mưu, đề xuất để bị cáo Vũ Huy Hoàng duyệt, ký các văn bản chấp thuận chủ trương cho Tổng Công ty Cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) thực hiện dự án bất động sản không phải là ngành nghề kinh doanh chính, chấp thuận cho liên kết thành lập công ty cổ phần làm chủ đầu tư dự án và chuyển giao khu đất cho công ty cổ phần không phải doanh nghiệp Nhà nước. Sau khi công ty cổ phần được thành lập, bà Thoa không chỉ đạo Sabeco thực hiện dự án mà lại tham mưu cho lãnh đạo Bộ Công Thương thoái toàn bộ vốn góp của Sabeco.

Hay như trường hợp, hàng loạt khu, lô đất vàng được lãnh đạo các TP. Đà Nẵng, TP.HCM chuyển nhượng cho Phan Văn Anh Vũ (Vũ “nhôm”), với giá rẻ ngoài sức tưởng tượng trong giai đoạn từ năm 2009 – 2016. Như khu đất phía Nam cuối đường Phạm Văn Đồng, TP. Đà Nẵng, chỉ cần nhượng lại, Vũ “nhôm” đã bỏ túi chênh lệch 495 tỷ đồng; hay khu đất 29ha thuộc dự án Sân golf Đa Phước, đã làm lợi cho “ông trùm” này hơn 579 tỷ đồng. Hàng loạt lô đất đắc địa khác đều bị Vũ “nhôm” thâu tóm.

Khu dự án khu đô thị Đa Phước 29ha. Ảnh: LP
Khu dự án khu đô thị Đa Phước 29ha. (Ảnh: LP)

Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong hàng loạt vụ sai phạm về quản lý đất đai trên phạm vi cả nước trong thời gian qua. Một số lỗ hổng trong Luật Đất đai và các văn bản dưới luật đã bị các nhóm lợi ích lợi dụng, thao túng, tự tung tự tác. Vì thế, sửa đổi Luật Đất đai là yêu cầu cấp bách cho không riêng một lĩnh vực nào mà trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; là yêu cầu cấp bách của nền kinh tế thị trường.

Nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp đang kỳ vọng vào các gói hỗ trợ của Chính phủ khi chịu ảnh hưởng lớn bởi dịch bệnh, khó khăn chồng khó khăn, thì việc sửa đổi những bất cập, thúc đẩy quá trình chuyển dịch đất đai, biến đất đai thành công cụ tài chính để hỗ trợ cho doanh nghiệp bất động sản khởi động và tái khởi động các dự án, tăng nguồn cung cho thị trường lại càng trở nên bức thiết.

“Đòn” Covid-19 và sự cấp bách của việc sửa đổi chính sách đất đai, gỡ khó cho doanh nghiệp và tạo đà hồi phục bền vững sau đại dịch

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai đã đưa vào từ chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV khi những vướng mắc trong việc thi hành các quy định của sắc luật này gây ảnh hưởng lớn đến không chỉ lĩnh vực đất đai mà toàn bộ nền kinh tế. Sau đó, sang Kỳ họp thứ 9, thứ 10, do cơ quan chủ trì soạn thảo chưa chuẩn bị xong nên dự án luật sửa đổi này lại một lần nữa “cáo lui” sang nhiệm kỳ Quốc hội và Chính phủ mới, dự kiến sẽ trình Quốc hội sửa đổi toàn diện Luật Đất đai tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XV (tháng 10/2021).

Nguyên nhân của việc lùi lại thời gian sửa đổi Luật Đất đai 2013 là do đây là luật quan trọng, phức tạp, nhạy cảm, có tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, do đó, cần có thêm thời gian để nghiên cứu, chuẩn bị và đánh giá kỹ hơn. Tuy nhiên, nếu Luật Đất đai không có sự điều chỉnh kịp thời và hợp lý thì có thể sẽ dẫn đến rất nhiều hệ lụy, đặc biệt là đối với doanh nghiệp.

Các quy định của Luật Đất đai 2013 và việc thực thi những quy định này trên thực tế phát sinh vấn đề đối với doanh nghiệp ở một số lĩnh vực liên quan đến giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án đầu tư; vấn đề liên quan đến việc xác định giá; vấn đề về bồi thường hỗ trợ tái định cư… Cụ thể như sau:

Vấn đề liên quan đến giao đất, cho thuê đất:

Giao đất, cho thuê đất là những phương thức để người dân, doanh nghiệp có thể tiếp cận được quyền sử dụng đất. Điều 52 Luật Đất đai 2013 quy định về căn cứ để tiến hành những phương thức này. Tuy nhiên, có thể thấy các quy định còn tương đối sơ sài, chưa cụ thể. Điều này có thể dẫn đến tình trạng xuất hiện cơ chế “xin – cho”, lợi dụng sự chưa cụ thể này để tham nhũng.

Ngoài ra, đất giao cho một dự án có thể gồm nhiều loại đang có hiện trạng sử dụng khác nhau. Vì vậy mà việc giải quyết đất đai cho một dự án khi đất đó có nhiều nguồn gốc khác nhau đang gặp phải trở ngại lớn.

Thị trường bất động sản hiện nay đang phát triển với nhiều loại hình đa dạng như condotel, officetel, shophouse… Trong khi đó, Luật Đất đai 2013 chưa có quy định cụ thể về chế độ sử dụng đất đối với các loại bất động sản trên. Điều này cho thấy Luật vẫn đang “đi sau” phân khúc bất động sản du lịch – nghỉ dưỡng kiểu mới, khiến cho những loại hình này chưa phát huy được hết tiềm năng.

Condotel Đà Nẵng
Luật Đất đai 2013 chưa có quy định cụ thể về chế độ sử dụng đất đối với các loại hình bất động sản mới như condotel, officetel, shophouse… (Ảnh: CafeF)

 

Vấn đề về thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư:

Luật Đất đai 2013 quy định hai hình thức bảo đảm cho nhà đầu tư có đất thực hiện dự án, đó là:

– Theo Điều 62, Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng;

– Theo Điều 73, nhà đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh;

Trên thực tế, quy định nhà đầu tư tự thỏa thuận nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thực hiện còn khó khăn do chưa quy định điều chỉnh đối với các trường hợp chưa thỏa thuận được.

Đối với cơ chế thu hồi, tạo quỹ đất sạch để đấu giá, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thông qua hoạt động của Tổ chức phát triển quỹ đất chưa được tổ chức thực hiện tốt. Một mặt là do các địa phương chưa thực sự quan tâm, mặt khác, quy định của Luật về cơ chế này chưa đủ rõ, khó thực hiện vì các trường hợp thu hồi đất tại Điều 62 Luật Đất đai 2013 hầu hết là dự án lớn, trong khi những quỹ đất nhỏ lẻ, xen kẹt trong đô thị, các khu vực lợi thế thương mại lại không thuộc diện Nhà nước thu hồi đất theo quy định để có thể khai thác được.

Việc thu hồi đất đối với các trường hợp vi phạm pháp luật về đất đai cũng rất khó khăn, nhất là các dự án đã được giao đất, cho thuê đất nhưng không đưa đất vào sử dụng, chậm đưa đất vào sử dụng, như: (i) Thu hồi đất trồng cây hàng năm không được sử dụng 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm không sử dụng trong 18 tháng liên tục, đất trồng rừng không sử dụng trong 24 tháng liên tục (điểm h Khoản 1 Điều 64); (ii) Thu hồi đất đối với dự án đầu tư đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất mà không sử dụng 12 tháng liên tục hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư kể từ ngày bàn giao đất trên thực địa (điểm i Khoản 1 Điều 64). Tình trạng dự án Nhà nước đã giao đất, cho thuê đất nhưng chậm đưa đất vào sử dụng vẫn còn xảy ra, gây lãng phí nguồn lực đất đai; quy định chuyển sang thuê đất của các tổ chức sự nghiệp công lập vẫn chưa được các địa phương nghiêm túc thực hiện.

Công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho một số dự án triển khai còn chậm, có nơi chưa hợp lý, ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất.

Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp không có năng lực tài chính, lợi dụng quy định tại Điều 62 về thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, để “chạy dự án”, đầu cơ “giữ đất”, làm phát sinh những “dự án treo” ở nhiều nơi, gây lãng phí tài nguyên đất. Điều này làm ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh, sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp.

Dự án bỏ hoang
Không ít dự án treo, bỏ hoang gây lãng phí tài nguyên đất đai. (Ảnh: Internet)

 

Vấn đề liên quan đến việc xác định giá đất cụ thể:

Công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho một số dự án triển khai còn chậm, nguyên nhân là do các bên không thống nhất được giá tiền bồi thường, mà được xác định theo giá đất cụ thể. Trong thực tế, giá đất được quy định trong Luật Đất đai 2013 và các văn bản liên quan đến giá đất trên thị trường hiện không hỗ trợ việc xác định giá đất cụ thể phù hợp với giá thị trường.

Những tồn tại, thiếu sót trên của Luật Đất đai 2013 đã gây ra nhiều khó khăn cho các chủ thể, trong đó có doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản, nhất là khi đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp khiến nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn, ngưng trệ, thậm chí dừng hoạt động và đứng trước bờ vực phá sản.

Trong khi đó, nhiều bất cập về vấn đề đất đai, quản lý đất đai, gây không ít bức xúc cho nhân dân, khoảng 70% khiếu kiện là liên quan đến đất đai, trong đó có nguyên nhân liên quan đến Luật Đất đai. Nếu để chậm nữa sẽ ảnh hưởng đến việc điều hành, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và việc giữ vững trật tự, an toàn xã hội trong thời gian sắp tới.

Ngày 1/5/2021, Văn phòng Chính phủ đã có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tổng kết thi hành Luật Ðất đai.

Theo đó, văn bản nhấn mạnh để công tác tổng kết thi hành Luật Đất đai đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương tổ chức tổng kết thi hành Luật Đất đai và gửi báo cáo tổng kết về Bộ Tài nguyên và Môi trường theo đúng kế hoạch của Ban Chỉ đạo (UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoàn thành trước 15/5/2021; các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoàn thành trước 30/6/2021).

Nội dung cơ bản gồm: Ðánh giá chồng chéo, mâu thuẫn và không thống nhất giữa Luật Ðất đai năm 2013 với luật chuyên ngành có liên quan và sự phù hợp; kết quả tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về đất đai; đánh giá những kết quả đạt được của Luật Ðất đai và thực tiễn thi hành trong việc nâng cao chất lượng công tác quản lý Nhà nước về đất đai; những hạn chế, bất cập trong các quy định của Luật Ðất đai, các văn bản quy định chi tiết thi hành và thực tiễn tổ chức thực hiện quy định của Luật; xác định và phân tích rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế, bất cập đó. Bên cạnh đó, đề xuất, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung những nội dung của Luật Ðất đai và các quy định khác có liên quan…

Hy vọng rằng Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung sẽ được thông qua kịp thời và khắc phục được những bất cập của Luật Đất đai 2013, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cải tổ chính sách đất đai đồng bộ – “Giương buồm ra khơi”

Luật Đất đai là luật quan trọng, phức tạp, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Việc sửa đổi Luật Đất đai tại thời điểm này sẽ có tác động lớn đến việc ổn định chính trị, xã hội, do đó, cần có sự sửa đổi mang tính tổng thể, toàn diện.

Đầu tiên, cần phải tăng cường giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch, quản lý, sử dụng đất đai, đặc biệt tại các vùng đô thị của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Nhân dân. Đây là những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng, tiếng nói của nhân dân nên việc kiểm tra, giám sát sẽ góp phần tạo ra sự minh bạch, hạn chế tham nhũng liên quan đến đất đai. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin đất đai thống nhất, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu của người dân và quản lý xã hội.

Việc công khai thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được thực hiện một cách bài bản. Thực tế ghi nhận dù quy định pháp luật yêu cầu phải công khai nhưng có những nơi không thực hiện nghĩa vụ này. Ngoài ra, nếu chỉ công khai trên website của cơ quan Nhà nước thì người dân ở vùng quê cũng khó tiếp cận và nếu không có thông báo từ chính quyền địa phương thì bản thân họ cũng không biết đến sự thay đổi trong quy hoạch, kế hoạch để tìm hiểu.

Bên cạnh đó, kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, nhiều loại hình công trình xây dựng đa năng kết hợp với lưu trú được ra đời như căn hộ khách sạn (condotel), homestay, căn hộ văn phòng (officetel) hay shophouse… Chính phủ cần đưa ra những quy định cụ thể về chế độ sử dụng đất cũng như công tác vận hành, quản lý các loại hình này.

Để hạn chế tình trạng “xin – cho”, tham nhũng trong quá trình giao đất, cho thuê đất, tiếp cận đến nguồn đất của người dân và doanh nghiệp, Chính phủ cần cân nhắc phương án bắt buộc giao đất, cho thuê đất phải thông qua đấu giá, đấu thầu công khai, minh bạch. Đối với những trường hợp không đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất thì phải được quy định cụ thể trong luật.

Cuối cùng, cần tăng cường, bổ sung các hình thức xử lý vi phạm với việc để dự án đất bị “treo” trong một thời gian dài, không được sử dụng, gây lãng phí nguồn tài nguyên quốc gia./.

Nguồn:https://reatimes.vn/sua-doi-luat-dat-daida-den-hoi-can-ban-thao-quyet-liet-20201224000004479.html?fbclid=IwAR3PMatD4iJuzJsOIBVYxMJ5pOu_btKva3_WxZJLjrbny-a6hTnqlIVwdRc

0/5 (0 Reviews)

Tư vấn pháp lý

Liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn 24/7

    Bài viết liên quan