Hiện nay nhiều doanh nghiệp kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét sửa đổi quy định tại điểm d khoản 6 Điều 1 Thông tư 06 (Sửa đổi Khoản 2 Điều 22 của Thông tư 39) yêu cầu với các tổ chức tín dụng: “Trường hợp cho vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án, có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích”. Dưới đây, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch công ty luật SBLAW trả lời các cơ quan báo chí về vấn đề sửa đổi Thông tư 06.
Theo ý kiến của nhiều DN, theo quy định trên, các ngân hàng không chỉ kiểm soát giám sát hoạt động của bên đi vay mà yêu cầu kiểm soát, giám sát cả hoạt động, dòng vốn của cả bên nhận góp vốn, tức là bên thứ ba – không đi vay trực tiếp nhưng vẫn phải chịu kiểm soát của ngân hàng, phải nộp các báo cáo cho ngân hàng là vô lý.
Câu hỏi 1: Quy định trên đã phù hợp với các quy định khác hay chưa? Có đi ngược với quyền tự do hoạt động kinh tế của các tổ chức cá nhân, được pháp luật đảm bảo hay không?
Trả lời:
Quy định tại điểm d khoản 6 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN yêu cầu tổ chức tín dụng phải có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích. Quy định này quy định chặt chẽ hơn vấn đề kiểm tra giám sát đối với bên thứ ba. Quy định này không mâu thuẫn, trái ngược với quy định hiện hành nhưng có thể thấy rằng quy định này là không khả thi. Bởi lẽ, bên thứ ba không phải là bên vay trực tiếp. Bên thứ ba chỉ là người góp vốn, và khoản vay được đảm bảo bằng tài sản góp vốn của các bên góp vốn. Trong trường hợp bên vay không trả nợ, tổ chức tín dụng có thể thu hồi nợ bằng tài sản góp vốn của các bên góp vốn. Bên cạnh đó việc kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của bên thứ ba sẽ tốn thời gian và chi phí của bên thứ ba.
Quy định này đã hạn chế quyền tự do hoạt động kinh tế của các tổ chức cá nhân, hạn chế quyền góp vốn của các tổ chức, cá nhân. Mỗi tổ chức có quyền quyết định về cách họ quản lý và sử dụng tài chính của mình, bao gồm nguồn thu nhập, đầu tư, và cách họ quản lý nợ và vốn. Tuy nhiên, với quy định bổ sung trong Thông tư 06/2023/TT-NHNN, các ngân hàng không chỉ kiểm soát, giám sát hoạt động của bên đi vay mà yêu cầu kiểm soát, giám sát cả hoạt động và dòng vốn của cả bên nhận góp vốn. Quy định này còn mang tính hành chính, bất hợp lý và hạn chế quyền góp vốn của các tổ chức, cá nhân cần có sự điều chỉnh hợp lý hơn.
Câu hỏi 2: Điều này sẽ gây hậu quả gì trong quá trình thực hiện, nhất là với doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận vốn vay ngân hàng?
Trả lời:
Thứ nhất, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay:
Quy định này yêu cầu tổ chức tín dụng phải có biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, đảm bảo khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn theo thỏa thuận, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Tuy nhiên, các khoản vay để thanh toán tiền góp vốn theo hợp đồng góp vốn, hợp đồng hợp tác đầu tư hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh để thực hiện dự án đã được đảm bảo bằng tài sản góp vốn của các bên góp vốn. Trong trường hợp bên vay không trả nợ, tổ chức tín dụng có thể thu hồi nợ bằng tài sản góp vốn của các bên góp vốn.
Do đó, việc yêu cầu tổ chức tín dụng phải kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đối với các khoản vay này là không cần thiết, mang nặng tính hành chính và gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn tiếp cận nguồn vốn vay.
Thứ hai, tốn thời gian và chi phí của doanh nghiệp:
Việc kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích sẽ tốn thời gian và chi phí của doanh nghiệp. Điều này khiến doanh nghiệp phải dành nhiều thời gian và công sức để đáp ứng các yêu cầu của tổ chức tín dụng, từ đó giảm thời gian và nguồn lực cho việc sản xuất, kinh doanh.
Thứ ba, gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp có vốn góp lớn sẽ có lợi thế hơn các doanh nghiệp có vốn góp nhỏ trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. Bởi lẽ, các doanh nghiệp có vốn góp lớn sẽ dễ dàng đáp ứng các yêu cầu về kiểm tra, giám sát, đánh giá tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng, kiểm soát việc sử dụng vốn vay đúng mục đích.
Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp có vốn góp nhỏ, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.
Như vậy, quy định tại điểm d khoản 6 Điều 1 Thông tư 06/2023/TT-NHNN cần được sửa đổi để giảm bớt khó khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay, đồng thời vẫn đảm bảo khả năng thu hồi nợ của tổ chức tín dụng.
Câu hỏi 3: Hiện các doanh nghiệp rất trông chờ sửa đổi Thông tư 06 càng sớm càng tốt. Trong năm 2023 Thủ tướng Chính phủ cũng đã có chỉ đạo xem xét nhưng vẫn chưa thực hiện. Việc sửa đổi Thông tư 06/2023 là nằm hoàn toàn trong tay chủ động của Ngân hàng Nhà nước có thể làm sớm được ngay đúng không?
Trả lời:
Các quy định của Thông tư 06/2023/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng là cần thiết đối với ngành ngân hàng, song về mặt thực tiễn nên có những điều chỉnh phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp và thị trường.
Về mặt pháp lý, việc sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN hoàn toàn nằm trong tay chủ động của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước có thể ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung Thông tư 06/2023/TT-NHNN bất cứ lúc nào mà không cần phải thông qua bất kỳ cơ quan nào khác. Tuy nhiên, việc sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN cũng cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng về các vấn đề liên quan, bao gồm:
Mục đích của việc sửa đổi: Mục đích của việc sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN là gì? Ngân hàng Nhà nước muốn sửa đổi những nội dung nào?
Ảnh hưởng của việc sửa đổi: Việc sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN sẽ có những ảnh hưởng như thế nào đối với các bên liên quan, bao gồm các tổ chức tín dụng, khách hàng,...
Thời gian thực hiện: Ngân hàng Nhà nước cần có bao nhiêu thời gian để thực hiện việc sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN?
Với những vấn đề cần được cân nhắc như vậy, theo đó, việc sửa đổi Thông tư 06/2023/TT-NHNN không thể thực hiện ngay được. Ngân hàng Nhà nước cần có thời gian để nghiên cứu, đánh giá và lấy ý kiến của các bên liên quan trước khi ban hành văn bản sửa đổi.
Mời quý khách tham khảo thêm dịch vụ >> Tài chính và ngân hàng của SBLAW