Ngày 3/11/2024, Quốc hội thông qua Luật Di sản văn hóa 2024, trong đó có khá nhiều điểm mới liên quan đến quyền sở hữu Di sản Văn hóa.
Về nội dung sở hữu riêng Di sản văn hóa, cụ thể khoản 3, điều 4 Luật Di sản Văn hóa quy định được xác lập sở hữu riêng bao gồm:
a) Di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản tư liệu do 01 cá nhân hoặc 01 pháp nhân sưu tầm, lưu giữ;
b) Di vật, cổ vật do 01 cá nhân hoặc 01 pháp nhân chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai theo quy định của Bộ luật Dân sự;
c) Di tích lịch sử - văn hóa, hiện vật, di sản tư liệu thuộc di tích, di sản tư liệu do 01 cá nhân hoặc 01 pháp nhân khởi lập, tạo dựng, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị;
d) Bí quyết, kỹ năng thực hành di sản văn hóa phi vật thể do 01 cá nhân sáng tạo, kế thừa, nắm giữ, thực hành và trao truyền;
đ) Trường hợp khác do luật quy định.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch công ty luật SBLAW có phần phân tích về những nội dung này trên kênh truyền hình cáp Việt Nam.
Nếu chiếu theo Luật Dân sự hiện hành thì các các cá nhân, tổ chức, tổ chức tôn giáo có thể xác lập quyền sở hữu riêng với Di tích lịch sử - Văn hóa; Di vật, cổ vật; Bảo vật quốc gia, di sản tư liệu hay không ạ?
Trả lời:
Theo quy định của khoản 3, Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2024, việc xác lập quyền sở hữu riêng đối với di sản văn hóa đã được mở rộng và làm rõ. Các trường hợp cụ thể được phép xác lập quyền sở hữu riêng bao gồm di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di sản tư liệu, di tích lịch sử - văn hóa, cũng như bí quyết và kỹ năng thực hành di sản văn hóa phi vật thể. Quy định này thể hiện sự thừa nhận và tôn trọng đối với vai trò của cá nhân và pháp nhân trong việc sưu tầm, quản lý và bảo tồn di sản văn hóa.
Chiếu theo BLDS 2015 các điều khoản liên quan đến việc xác lập quyền sở hữu được quy định tại Điều 158 và Điều 221 BLDS 2015. Cụ thể:
“Điều 158. Quyền sở hữu
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”
“Điều 221. Căn cứ xác lập quyền sở hữu
Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong trường hợp sau đây:
- Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, do hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ.
- Được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác.
- Thu hoa lợi, lợi tức.
- Tạo thành tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
- Được thừa kế.
- Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không xác định được chủ sở hữu; tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy; tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 158 và 221 Bộ luật Dân sự 2015, quyền sở hữu được xác lập khi một tài sản đáp ứng các điều kiện như:
- Chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai: Tài sản được cá nhân hoặc tổ chức quản lý và sử dụng hợp pháp trong một thời gian dài mà không bị tranh chấp, đồng thời việc chiếm hữu diễn ra công khai, không gian dối hoặc vi phạm pháp luật.
- Khởi lập, tạo dựng hoặc nhận chuyển giao hợp pháp: Cá nhân hoặc tổ chức có thể được công nhận quyền sở hữu khi trực tiếp khởi lập tài sản hoặc thông qua các giao dịch hợp pháp như mua bán, thừa kế.
Nếu chiếu theo Luật Dân sự hiện hành thì các các cá nhân, tổ chức, tổ chức tôn giáo có thể xác lập quyền sở hữu riêng với Di tích lịch sử - Văn hóa; Di vật, cổ vật; Bảo vật quốc gia, di sản tư liệu. Luật Di sản văn hóa năm 2024, tại khoản 3, Điều 4, lần đầu tiên quy định rõ ràng về quyền sở hữu riêng đối với các loại di sản văn hóa. Các chủ thể, bao gồm cá nhân, pháp nhân và tổ chức tôn giáo, có thể sở hữu riêng di sản văn hóa nếu họ đã sưu tầm, lưu giữ, khởi lập, tạo dựng, hoặc bảo vệ các di sản đó. Quy định này đã phản ánh sự thừa nhận vai trò của cá nhân và tổ chức trong công tác bảo tồn, đồng thời mở ra khả năng xã hội hóa việc quản lý di sản văn hóa.
Thưa ông, ngày 23/11 vừa qua Quốc hội đã thông qua Luật Di sản Văn hóa 2024, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025. Trong đó công nhận quyền sở hữu toàn dân, sở hữu chung và sở hữu riêng. Với sở hữu riêng, Luật công nhận quyền sở hữu với Di tích lịch sử - văn hóa; hiện vật; di sản tư liệu thuộc di tích; di sản tư liệu; di vật; cổ vật; bảo vật quốc gia do 1 cá nhân hoặc 1 pháp nhân sưu tầm, lưu giữ, khởi lập, tạo dựng, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị. Chiếu theo Luật Dân sự hiện hành thì các cá nhân, tổ chức sẽ có quyền hạn như thế nào với các di sản ạ?
Trả lời:
Theo Luật Di sản văn hóa 2024 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2025), quyền sở hữu đối với di sản văn hóa được chia thành ba loại: sở hữu toàn dân, sở hữu chung, và sở hữu riêng. Trong đó, quyền sở hữu riêng được công nhận cho các cá nhân và pháp nhân đối với những di sản cụ thể như di tích lịch sử - văn hóa, hiện vật, di sản tư liệu, di vật, cổ vật, và bảo vật quốc gia, với điều kiện các chủ thể này đã sưu tầm, lưu giữ, khởi lập, tạo dựng, quản lý, bảo vệ, và phát huy giá trị của các di sản này.
Chiếu theo BLDS 2015 thì các cá nhân, tổ chức sẽ có quyền hạn gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu căn cứ theo Điều 158.
Thứ nhất, các cá nhân và pháp nhân có quyền chiếm hữu
Căn cứ theo Điều 186 BLDS quy định:
“Điều 186. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”
Theo đó, chiếm hữu là việc nắm giữ và quản lý tài sản. Nếu cá nhân hoặc tổ chức sở hữu riêng di sản văn hóa, họ có quyền giữ gìn và quản lý di sản đó một cách hợp pháp.Việc chiếm hữu di sản phải đảm bảo tính ngay tình, liên tục, và công khai nếu không có tài liệu chứng minh quyền sở hữu hợp pháp ban đầu.
Thứ hai, các cá nhân và pháp nhân có quyền sử dụng
Căn cứ theo Điều 189 BLDS quy định:
“Điều 189. Quyền sử dụng
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản.
Quyền sử dụng có thể được chuyển giao cho người khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.”
Điều 189 cho phép chủ sở hữu khai thác công năng và lợi ích từ tài sản. Trong trường hợp di sản văn hóa, quyền sử dụng phải tuân thủ các quy định bảo tồn di sản, đảm bảo không làm tổn hại đến giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học của di sản.
Thứ ba, các cá nhân và pháp nhân quyền định đoạt
Căn cứ theo Điều 192 BLDS 2015 quy định:
“Điều 192. Quyền định đoạt
Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản.”
Điều 192 BLDS quy định chủ sở hữu có quyền bán, chuyển nhượng, tặng cho hoặc để lại thừa kế tài sản. Tuy nhiên, đối với di sản văn hóa, việc định đoạt phải tuân thủ các quy định của Luật Di sản văn hóa. Các di sản quan trọng như bảo vật quốc gia không được phép xuất khẩu hoặc chuyển nhượng ra nước ngoài trừ trường hợp đặc biệt. Việc chuyển nhượng di vật hoặc cổ vật phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước theo quy định.
Tuy nhiên, các cá nhân và pháp nhân có thể bị hạn chế quyền sở hữu do các quyền sở hữu đối với di sản văn hóa có thể bị giới hạn nhằm bảo đảm lợi ích công cộng. Điều 163 BLDS cho phép Nhà nước can thiệp để bảo vệ tài sản có ý nghĩa quan trọng đối với cộng đồng.
“Điều 163. Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản
- Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.
- Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.”
Như vậy, việc công nhận quyền sở hữu riêng với các di sản văn hóa là bước tiến quan trọng nhằm khuyến khích cá nhân và tổ chức tham gia bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Tuy nhiên, các quyền này luôn gắn liền với trách nhiệm bảo vệ di sản, phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của pháp luật để tránh nguy cơ khai thác thương mại không phù hợp hoặc làm mất mát giá trị văn hóa.
Hiện tại trong 40 nghìn di tích tại Việt Nam thì Phật giáo chiếm số lượng nhiều nhất, chiếm 1/10 tổng số di tích. Trong đó có thể tra cứu, chứng minh rõ nguồn gốc lịch sử các chùa được công nhận di tích do các sư bên Phật giáo khởi lập, tạo dựng, quản lý, bảo vệ. Vậy khi Luật có hiệu lực thì quyền sở hữu của các chủ thể này với di tích là ra sao ạ?
Trả lời:
Việc Luật Di sản văn hóa năm 2024 công nhận quyền sở hữu riêng đối với di tích lịch sử - văn hóa, bao gồm các chùa thuộc Phật giáo, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc thừa nhận vai trò của tổ chức tôn giáo trong việc bảo tồn di sản. Phật giáo, với hơn 4.000 di tích trên tổng số 40.000 di tích tại Việt Nam, là chủ thể chính trong việc gìn giữ các giá trị lịch sử và văn hóa dân tộc. Sự thay đổi này không chỉ khẳng định quyền sở hữu hợp pháp mà còn mở rộng quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức tôn giáo trong quản lý di sản.
Theo khoản 3, Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2024, quyền sở hữu riêng đối với di sản được công nhận nếu đáp ứng các điều kiện:
Thứ nhất, chứng minh nguồn gốc khởi lập, tạo dựng. Các tổ chức tôn giáo như chùa chiền phải cung cấp tài liệu hoặc bằng chứng lịch sử chứng minh rằng di tích được xây dựng hoặc tạo lập bởi chính các tổ chức hoặc cá nhân liên quan trong tôn giáo đó.
Thứ hai, quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị. Nếu các tổ chức Phật giáo đã trực tiếp quản lý và bảo vệ các chùa được công nhận là di tích trong thời gian dài, điều này củng cố quyền sở hữu của họ theo luật.
Thứ ba, không thuộc quyền sở hữu toàn dân. Di tích phải không nằm trong diện được xác định thuộc sở hữu toàn dân hoặc quản lý đặc biệt của Nhà nước.
Ngoài ra, Bộ luật Dân sự 2015 (Điều 221 và 158) cũng là cơ sở quan trọng để xác lập quyền sở hữu. Theo đó, quyền sở hữu được công nhận khi cá nhân hoặc tổ chức chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai, đồng thời việc sở hữu không vi phạm quy định pháp luật. Điều này phù hợp với thực tế của nhiều chùa, nơi các sư thầy và tổ chức tôn giáo đã quản lý và phát triển trong hàng trăm năm.
Khi quyền sở hữu riêng được công nhận, các tổ chức Phật giáo sẽ có quyền hạn chính đáng trong việc quản lý và sử dụng di tích, bao gồm:
Thứ nhất, quyền chiếm hữu và quản lý. Các chùa có thể tiếp tục duy trì vai trò trung tâm văn hóa, tín ngưỡng của mình, đồng thời đảm bảo giữ gìn nguyên trạng di tích. Quyền quản lý bao gồm việc quyết định các hoạt động bảo tồn, trùng tu hoặc phát triển phù hợp với giá trị lịch sử của di tích.
Thứ hai, quyền sử dụng tài sản. Các tổ chức Phật giáo có thể sử dụng di tích vào các mục đích tôn giáo, văn hóa, hoặc giáo dục, miễn là không làm thay đổi tính chất của di tích. Ví dụ, một số chùa hiện đang kết hợp giữa hoạt động tín ngưỡng và du lịch văn hóa, góp phần nâng cao giá trị cộng đồng của di tích.
Thứ ba, nhận được sự hỗ trợ từ Nhà nước. Quyền sở hữu không loại bỏ sự hỗ trợ từ Nhà nước trong việc bảo tồn di sản. Ngược lại, các chùa có thể được ưu tiên nhận kinh phí, hỗ trợ kỹ thuật từ chính quyền để đảm bảo việc bảo tồn hiệu quả.
Quyền sở hữu riêng đối với di sản lịch sử - văn hóa, đặc biệt là các chùa thuộc Phật giáo, không phải là quyền tuyệt đối. Các tổ chức tôn giáo cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm được quy định trong Luật Di sản văn hóa, bao gồm:
Thứ nhất, bảo tồn giá trị văn hóa, lịch sử. Các chùa không được phép phá hủy, làm biến dạng, hoặc khai thác thương mại quá mức di tích. Ví dụ, nếu chùa được trùng tu, việc này phải đảm bảo giữ nguyên thiết kế kiến trúc và các yếu tố lịch sử ban đầu.
Thứ hai, phát huy giá trị di sản. Ngoài bảo tồn, các tổ chức tôn giáo cần có trách nhiệm phát huy giá trị giáo dục, văn hóa và tinh thần của di tích. Điều này bao gồm việc tổ chức các hoạt động tín ngưỡng hoặc văn hóa nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị của di tích.
Thứ ba, thực hiện việc đăng ký và giám sát. Các tổ chức tôn giáo sở hữu di tích phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu với cơ quan quản lý Nhà nước và tuân thủ các quy định giám sát nghiêm ngặt để tránh lạm dụng quyền.
Việc công nhận quyền sở hữu riêng là bước tiến lớn, giúp các tổ chức Phật giáo chính thức hóa quyền quản lý di sản vốn dĩ họ đã đảm nhận trong suốt lịch sử. Quyền này giúp các chùa dễ dàng hơn trong việc huy động nguồn lực xã hội để bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự ghi nhận vai trò quan trọng của Phật giáo trong việc gìn giữ và phát triển văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, các tổ chức Phật giáo cũng đối mặt với thách thức lớn về việc cân bằng giữa bảo tồn giá trị lịch sử và phát triển kinh tế xã hội. Ví dụ, nguy cơ thương mại hóa di sản hoặc trùng tu không đúng cách có thể làm tổn hại đến giá trị văn hóa của các chùa.
Như vậy, khi Luật Di sản văn hóa năm 2024 có hiệu lực, các tổ chức Phật giáo sẽ có cơ sở pháp lý rõ ràng để xác lập quyền sở hữu riêng đối với các chùa thuộc hệ thống di tích lịch sử - văn hóa. Quy định này không chỉ mang lại quyền lợi cho các tổ chức tôn giáo mà còn đặt ra trách nhiệm lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. Phật giáo cần tận dụng cơ hội này để tiếp tục đóng góp vào việc giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời đảm bảo phát triển bền vững cho di sản dân tộc.
Để đảm bảo quyền sở hữu riêng theo Luật Di sản Văn hóa 2024 thì các chùa Phật giáo cần thực hiện những công việc gì?
Trả lời:
Để đảm bảo quyền sở hữu riêng theo quy định của Luật Di sản Văn hóa năm 2024, các chùa thuộc Phật giáo cần thực hiện một loạt các công việc quan trọng nhằm đáp ứng các điều kiện pháp lý và quản lý hiệu quả di sản. Một trong những bước trọng yếu là việc thành lập các Ban Quản trị cơ sở tự viện - tổ chức tôn giáo trực thuộc - theo quy định của Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016 và tiến hành đăng ký pháp nhân theo Bộ luật Dân sự hiện hành.
Thứ nhất, các chùa Phật giáo cần thành lập và kiện toàn Ban quản trị cơ sở tự viện. Ban Quản trị cơ sở tự viện đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý và điều hành các hoạt động của chùa, đồng thời là đại diện pháp lý của chùa trong các giao dịch liên quan đến quyền sở hữu. Theo Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2016, Ban Quản trị này cần được tổ chức hợp pháp và có sự công nhận của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như các cơ quan quản lý nhà nước. Việc thành lập Ban Quản trị không chỉ đảm bảo tính chuyên nghiệp trong quản lý mà còn là điều kiện tiên quyết để xin cấp tư cách pháp nhân.
Thứ hai, thực hiện đăng ký tư cách pháp nhân cho chùa. Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015, một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi đáp ứng các điều kiện sau:
- Được thành lập hợp pháp.
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
- Có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó.
- Nhân danh chính mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Để các chùa được công nhận quyền sở hữu riêng, Ban Quản trị cơ sở tự viện cần tiến hành đăng ký tư cách pháp nhân
Thứ ba, các chùa cần chứng minh nguồn gốc lịch sử và quyền quản lý. Để được công nhận quyền sở hữu riêng, các chùa cần cung cấp tài liệu và bằng chứng lịch sử chứng minh rằng di tích đã được khởi lập, tạo dựng, và quản lý bởi tổ chức tôn giáo liên quan.
Thứ tư, cần phối hợp với cơ quan nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Các chùa cần duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam – tổ chức tôn giáo cấp cao nhất – để được hướng dẫn và hỗ trợ trong việc đăng ký và thực hiện các quyền liên quan. Đồng thời, chùa cần phối hợp với các cơ quan nhà nước trong:
- Việc bảo tồn di tích theo quy định của pháp luật.
- Hoàn thiện các thủ tục liên quan đến quyền sở hữu đất đai và tài sản gắn liền với di tích.
- Nhận hỗ trợ về tài chính hoặc kỹ thuật từ Nhà nước trong trường hợp cần thiết.
Thứ năm, thực hiện trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị di tích. Quyền sở hữu riêng đi kèm với trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa. Các chùa cần xây dựng kế hoạch bảo tồn di tích lâu dài, bao gồm:
- Bảo tồn nguyên trạng: Trùng tu, sửa chữa di tích theo đúng quy chuẩn bảo tồn di sản.
- Phát huy giá trị văn hóa và tôn giáo: Tổ chức các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, giáo dục cộng đồng về giá trị lịch sử của di tích.
- Minh bạch tài chính: Công khai, minh bạch trong việc huy động và sử dụng nguồn lực xã hội hóa.
Như vậy, việc Luật Di sản văn hóa năm 2024 công nhận quyền sở hữu riêng mở ra cơ hội quan trọng cho các chùa thuộc Phật giáo, giúp họ có cơ sở pháp lý để bảo vệ và phát triển di tích. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm, các chùa cần chủ động thành lập Ban Quản trị cơ sở tự viện, đăng ký tư cách pháp nhân, và hoàn thiện hồ sơ pháp lý liên quan. Đồng thời, sự phối hợp chặt chẽ với Giáo hội Phật giáo Việt Nam và các cơ quan nhà nước sẽ giúp đảm bảo quá trình này diễn ra thuận lợi và bền vững.
|