QUỐC HỘI VIỆT NAM: LUÔN TỰ ĐỐI MỚI MÌNH VÀ CHUYÊN NGHIỆP HÓA HOẠT ĐỘNG HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP

Nội dung bài viết

Trong hành trình 80 năm đồng hành cùng dân tộc, Quốc hội Việt Nam không chỉ là cơ quan quyền lực cao nhất mà còn là biểu tượng của ý chí đổi mới, phản ánh trí tuệ và khát vọng phát triển đất nước. Bước vào giai đoạn phát triển mới, “kỷ nguyên vươn mình” hướng tới mục tiêu quốc gia hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045 – hoạt động lập pháp càng được đặt vào vị trí trung tâm, đóng vai trò định hình thể chế và dẫn dắt tiến trình cải cách toàn diện.

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc hội Việt Nam, Tạp chí Đầu tư Tài chínhcó cuộc trò chuyện với Tạp chí Đầu tư Tài chính - VietnamFinace có cuộc trò chuyện với Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty Luật SBLAW.

Ông đánh giá như thế nào về nỗ lực cải cách lập pháp của Quốc hội trong thời gian qua?

Với tư cách là một cử tri theo dõi sát hoạt động của Quốc hội và đôi khi cũng được các nhà báo hỏi ý kiến về các dự thảo luật được trình ra Quốc hội thông qua, tôi thấy ấn tượng và khâm phục với khối lượng công việc khổng lồ mà Quốc hội thông qua, đặc biệt là trong bối cảnh đất nước có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp và thực hiện mục tiêu tăng trưởng 8% và 2 con số trong những năm tiếp theo.

Việc thực hiện cải cách quy trình làm luật, cùng sự nỗ lực của ban soạn thảo, các ủy ban của Quốc hội và của các vị đại biểu Quốc hội đã đảm bảo được chương trình làm việc và đạt được nhiều thành tựu lập pháp.

Nhiều cải cánh mà trước đây chưa bao giờ thực hiện như có một khoảng giãn cách giữa 2 kỳ họp để các đại biểu có thời gian nghiên cứu cũng như tăng số lượng kỳ họp lên, không ‘xuân thu nhị kỳ’ như trước đây đã đẩy nhanh quá trình ban hành luật.

Quan điểm xây dựng luật tạo khung pháp lý, quy định những vấn đề bao quát, còn cụ thể thì để Chính phủ và các cơ quan chức năng quy định cũng là một bước tiến, luật phải bao quát và có tính ổn định cao.

Cùng với đó, nhìn lại quá trình lập pháp, có thể thấy sự ra đời của các đạo luật nền tảng như Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Biển Việt Nam, Luật Doanh nghiệp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật An ninh mạng hay Luật Bảo vệ môi trường… giữ vai trò định hình cấu trúc và trật tự vận hành của nền kinh tế - xã hội. Luật Đất đai và Luật Đầu tư tạo hành lang pháp lý cho phân bổ nguồn lực và thu hút dòng vốn phát triển. Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự thiết lập chuẩn mực giao dịch, xác lập quyền - nghĩa vụ của các chủ thể và bảo vệ trật tự pháp lý. Luật Doanh nghiệp thúc đẩy môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, khuyến khích sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp. Luật Biển Việt Nam khẳng định chủ quyền và định hướng khai thác bền vững tài nguyên biển; trong khi Luật An ninh mạng và Luật Bảo vệ môi trường góp phần đảm bảo an toàn số và phát triển xanh - hai trụ cột mới của tăng trưởng dài hạn. Cùng với Luật Tổ chức Quốc hội điều chỉnh cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, các đạo luật này hợp thành hệ khung pháp lý cốt lõi, chi phối chất lượng quản trị quốc gia và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Bên cạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, Quốc hội giữ vai trò quan trọng trong công cuộc Đổi mới và phát triển đất nước. Trong suốt hành trình Đổi mới, Quốc hội không chỉ ban hành các đạo luật nền tảng mà còn từng bước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng vào đời sống pháp lý và thực tiễn quản trị. Đặc biệt, tại Quốc hội khóa XV, yêu cầu hoàn thiện thể chế phát triển và xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Quốc hội đã thúc đẩy các chương trình lập pháp gắn với yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, phân cấp mạnh cho địa phương, và khuyến khích đổi mới sáng tạo, hướng tới mô hình nhà nước phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng quốc gia.

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức năng giám sát của Quốc hội có ý nghĩa đảm bảo quyền lực nhà nước được thực thi công khai, minh bạch và đúng pháp luật.

Với quyền giám sát tối cao, Quốc hội xem xét, đánh giá hoạt động của Chính phủ, Tòa án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, cũng như các bộ, ngành và địa phương trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, hành pháp và tư pháp. Thông qua hoạt động chất vấn, giám sát chuyên đề và xem xét báo cáo định kỳ, Quốc hội kịp thời phát hiện bất cập, thúc đẩy khắc phục sai phạm, đồng thời kiến tạo các quyết sách điều chỉnh phù hợp với thực tiễn đang vận động nhanh chóng.

Không chỉ trong phạm vi quốc gia, Quốc hội còn góp phần quan trọng trong mở rộng quan hệ đối ngoại, phục vụ tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Thông qua ngoại giao nghị viện, Quốc hội tham gia các diễn đàn khu vực và quốc tế, thúc đẩy hợp tác song phương, đa phương, và triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước. Hoạt động này không chỉ tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, mà còn khẳng định vị thế, uy tín quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều biến động.

Trong quá trình đó, công tác lập pháp có bộc lộ những hạn chế nào không, thưa ông?

Vướng mắc lớn nhất của hoạt động lập pháp hiện nay theo tôi đó là sự lo ngại về chất lượng các dự án luật được trình, với 500 đại biểu quốc hội và các ủy ban, các cơ quan hỗ trợ các đại biểu, với một số lượng luật lớn như thế, ví dụ kỳ họp cuối năm 2025, có 50 luật được thông qua liệu có đảm bảo là các đại biểu có đủ thời gian để đọc và góp ý kiến được đầy đủ không?

Từ việc thời gian gấp rút như thế, dẫn tới tình trạng là chất lượng của luật khó đảm bảo, khi đi vào thực tiễn sẽ khó áp dụng và lại tiếp tục phải sửa liên tục. Luật Đất đai là một ví dụ, được thông qua trong một thời gian ngắn sau rất nhiều năm chuẩn bị, nhưng khi đi vào thực tiễn lại tiếp tục phải sửa đổi và bổ sung.

Vấn đề nữa là còn nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội còn nhiều điểm nghẽn do hành lang pháp lý mâu thuẫn, chồng chéo, Quốc hội, Chính phủ đã nhìn ra, nhưng để tháo gỡ được bằng công tác lập pháp là cực kỳ khó khăn, ví dụ như các dự án bất động sản, năng lượng tái tạo, hạ tầng, đã có nỗ lực tháo gỡ nhưng kết quả chưa được như kỳ vọng của cử tri và nhà đầu tư.

- Nguyên nhân nào dẫn tới điều này, thưa Luật sư?

Nguyên nhân đó là luật là quy định mang tính phổ quát, không thể toàn diện và đáp ứng đầy đủ quyền lợi của các chủ thể chịu tác động, có thể một quy định phù hợp với đối tượng này nhưng lại là bất lợi với đối tượng khác nên đôi khi khó áp dụng vào thực tế.

Bên cạnh đó, có nhiều vấn đề mới phát sinh như tài sản số, dữ liệu, trí tuệ nhân tạo, bản thân những lĩnh vực này thế giới cũng phải mầy mò xây chính sách và luật, Việt Nam cũng xuất phát điểm cùng, chúng ta cũng phải mầy mò, vừa làm vừa sửa, không thể hoàn thiện được ngay.

Nhiều vấn đề thì do sự thay đổi nhanh của tình hình kinh tế xã hội, luật nhiều khi vừa ra đời đã bị lạc hậu và không thể áp dụng.

Một vấn đề nữa, đó là cũng do áp lực của công tác lập pháp, nhiều dự thảo của bộ ban ngành chưa thể tốt do một thời gian quá ngắn phải chuẩn bị, rồi gửi các đại biểu thông qua.

- Quốc hội cần đổi mới như thế nào trong quy trình xây dựng và ban hành luật để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với đời sống?

Cần nâng cao chất lượng của các dự thảo, các dự thảo là yếu tố ban đầu và quyết định để gửi lên các ủy ban và các đại biểu, các dự thảo tốt và chất lượng thì đương nhiên luật sẽ có chất lượng tốt hơn.

Theo quan điểm của tôi, Quốc hội khóa tới sẽ cần nâng số lượng các đại biểu chuyên trách, và các đại biểu là những chuyên gia đầu ngành, có thời gian, tâm huyết để chỉ tập trung xây dựng luật, không kiêm nhiệm. Số lượng đại biểu chuyên trách là yếu tố quan trọng nhằm nâng cao công tác lập pháp.

Việc tổ chức lấy ý kiến của người dân, chuyên gia, nhà khoa học cần tổ chức khoa học, minh bạch và đảm bảo các ý kiến này được ghi nhận xứng đáng, phát huy trí tuệ tập thể của người dân trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật.

- Theo ông vai trò giám sát của Quốc hội cần được phát huy ra sao để bảo đảm luật được thực thi nghiêm túc, hiệu quả?

Quốc hội có quyền giám sát tối cao, tuy nhiên, cần trang bị các công cụ để các đại biểu quốc hội có thể thực hiện quyền giám sát của mình. Các công cụ đó bao gồm nhân sự, tài chính và các công cụ phù hợp khác.

Bên cạnh vai trò lập pháp, vai trò giám sát việc thi hành pháp luật cũng rất quan trọng, chỉ khi thực hiện hoạt động giám sát hiệu quả thì các đại biểu mới có dữ liệu để thực hiện chức năng lập pháp tốt hơn.

- Đổi mới hoạt động lập pháp có ý nghĩa thế nào trong việc kiến tạo thể chế cho mục tiêu “Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, hạnh phúc” đến năm 2045?

Thể chế và pháp luật cần được coi là một tài nguyên quan trọng, khi quốc gia có một hệ thống pháp luật hiệu quả và một thể chế phù hợp, điều đó sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bàn vững, thực hiện mục tiêu 2045, 100 năm thành lập nước.

Muốn xây dựng được thể chế và pháp luật quốc gia hiện đại, đảm bảo theo kịp sự phát triển của kinh tế, pháp luật không đi theo thực tiễn mà phải bám sát thực tiễn, được sửa đổi, bổ sung kịp thời, tháo gỡ những điểm nghẽn thì cần phải đổi mới công tác lập pháp.

Vai trò của các đại biểu quốc hội phải được nâng cao hơn nữa, chất lượng của các đại biểu cũng nâng cao, các đại biểu thực sự là những nhà lập pháp có trình độ pháp lý cao, xứng đáng là các đại biểu ưu tú của người dân và cử tri.

- Quốc hội cần làm gì để chủ động hơn trong việc dự báo, phản ứng chính sách trước các vấn đề mới của thời đại như chuyển đổi số, AI, kinh tế xanh?

Quộc hội cần chủ động nắm bắt xu thế thông qua bộ máy giúp việc, xây dựng được bộ máy giúp việc hiệu quả như văn phòng quốc hội, các ủy ban, bằng việc áp dụng công nghệ vào công tác lập pháp, bản thân các đại biểu luôn được cập nhật về các vấn đề mới và các đại biểu cũng là người có thể đưa ra các sáng kiến lập pháp bằng cách trình ra các dự án luật.

Các đại biểu cần gần dân, tiếp xúc cử tri mọi lúc, mọi nơi, luôn có cơ chế để lắng nghe ý kiến của cử tri, hiểu được hơi thở của thực tiễn và sự vận hành, thay đổi nhanh gọn của nền kinh tế.

-  Ông đánh giá thế nào về vai trò dẫn dắt, kiến tạo của Quốc hội trong việc mở đường cho cải cách thể chế và phát triển đất nước trong giai đoạn tới?

Quốc hội là cơ quan lập pháp, là nơi làm ra luật và thực hiện vai trò giám sát thi hành pháp luật, Quốc hội cần có sự phối hợp chặt chẽ với Chính phủ để phối hợp nhịp nhàng trong hoạt động điều hành và trong công tác lập pháp.

Quốc hội cũng cần thúc đẩy hoạt động cải cách tư pháp, đảm bảo hoạt động xét xử của tòa án và các hoạt động tư pháp khác của các cơ quan tố tụng thực sự là chỗ dựa của công lý, đảm bảo bình đẳng và người dân được hệ thống tư pháp bảo vệ.

-Theo ông đâu là yếu tố then chốt để Quốc hội thực sự trở thành trung tâm đổi mới lập pháp – trụ cột của “kỷ nguyên vươn mình” của Việt Nam?

Yếu tố then chốt đó là Quốc hội luôn tự đổi mới mình, luôn học hỏi và áp dụng mô hình đổi mới sáng tạo trên thế giới để có thể áp dụng vào điều kiện của việt nam.

Đã đến lúc có thể xem xét đổi mới hoạt động của Quốc hội, Quốc hội có thể là cơ quan làm việc thường trực, luôn theo kịp sự phát triển của xã hội.

Tham khảo tư vấn: Bản tin pháp luật 

Bài viết liên quan

Bcons Asahi