Những nội dung cơ bản của Luật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ

Nội dung bài viết

Sau hơn 20 năm thực hiện Luật Phòng cháy chữa cháy, 10 năm thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy chữa cháy, các chủ trương, chính sách, pháp luật về Luật Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ đã đi vào thực tiễn góp phần nâng cao ý thức và bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân và tài sản của nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Phòng cháy chữa cháy đã đặt ra yêu cầu sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình thực tế. Do đó, Luật Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ năm 2024, gồm 9 Chương, 65 Điều đã trình Quốc hội và cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7, thông qua tại kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XV, bổ sung nhiều điểm mới, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật đang hiện hành. Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Công ty luật SBLAW trả lời truyền thông về những điểm bổ sung mới của luật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ. Mời quý khách theo dõi/

Thưa LS, theo dõi luật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ ông có ấn tượng nhất với những điểm mới nào?

Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (PCCC và CNCH) năm 2024 đã bổ sung nhiều điểm mới đáng chú ý, phản ánh sự phát triển và điều chỉnh trong công tác phòng cháy chữa cháy tại Việt Nam, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành.

Những điểm mới quan trọng mà tôi ấn tượng trong Luật PCCC và CNCH đầu tiên phải nói đến sự thay đổi về tên gọi và cấu trúc luật. Luật PCCC và CNCH đã thay đổi tên gọi từ "Luật Phòng cháy và chữa cháy" thành "Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ". Sự thay đổi này không chỉ phản ánh sự mở rộng phạm vi điều chỉnh mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động cứu nạn, cứu hộ trong bối cảnh thiên tai, tai nạn xảy ra ngày càng nhiều. Việc kết hợp hai lĩnh vực này trong một văn bản pháp lý giúp tạo ra sự đồng bộ và thống nhất trong công tác quản lý nhà nước về an toàn phòng cháy chữa cháy và cứu nạn.

Thứ hai, Luật đã bổ sung hành vi bị cấm. Bổ sung nhiều hành vi bị cấm trong lĩnh vực PCCC và CNCH bao gồm việc xúc phạm lực lượng PCCC, báo tai nạn giả, hay lạm dụng nhiệm vụ phòng cháy để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác. Khi Luật quy định rõ ràng các hành vi bị cấm không chỉ giúp nâng cao ý thức cộng đồng về trách nhiệm trong công tác PCCC mà còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc để xử lý các trường hợp vi phạm, góp phần bảo vệ an toàn cho cộng đồng và nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng chức năng.

Thứ ba, quy định về an toàn phòng cháy đối với nhà ở. Một trong những điểm mới đáng chú ý nữa là quy định cụ thể hơn về các điều kiện an toàn PCCC cho nhà ở, đặc biệt là nhà ở kết hợp kinh doanh. Luật yêu cầu các chủ sở hữu phải đảm bảo lối thoát nạn an toàn, bố trí các thiết bị chữa cháy cần thiết và thực hiện các biện pháp ngăn cháy giữa khu vực sinh hoạt và khu vực kinh doanh. Quy định này không chỉ bảo vệ tính mạng và tài sản của người dân mà còn giúp giảm thiểu rủi ro cho những người xung quanh.

Thứ tư, giảm bớt yêu cầu quy hoạch cho khu công nghiệp mới. Luật mới đã giảm bớt yêu cầu đối với quy hoạch dự án xây dựng khu công nghiệp, không còn yêu cầu địa điểm xây dựng và dự toán kinh phí cho các hạng mục PCCC. Sự thay đổi này nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư, khuyến khích phát triển kinh tế mà vẫn đảm bảo an toàn PCCC. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về trách nhiệm tự giác của các doanh nghiệp trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa.

Thứ năm, tăng cường trách nhiệm của chính quyền địa phương. Luật quy định rõ hơn trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc quản lý an toàn PCCC tại các cơ sở kinh doanh. Chính quyền sẽ có nhiệm vụ phân loại và công bố danh sách các cơ sở không đảm bảo yêu cầu về PCCC, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời. Điều này đã giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo ra sự minh bạch trong hoạt động kinh doanh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.

Thứ sáu, bảo đảm an toàn trong lắp đặt điện. Một điểm mới quan trọng khác là yêu cầu cụ thể về bảo đảm an toàn khi lắp đặt và sử dụng điện cho sinh hoạt và sản xuất. Đây là một yếu tố quan trọng vì nhiều vụ cháy nổ xảy ra do sự cố điện. Luật yêu cầu phải tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật về điện, kiểm tra định kỳ hệ thống điện để phát hiện kịp thời các nguy cơ tiềm ẩn. Việc này sẽ góp phần giảm thiểu nguy cơ cháy nổ từ điện, bảo vệ tài sản và tính mạng của người dân.

Những điểm mới trong Luật PCCC và CNCH năm 2024 không chỉ thể hiện sự tiến bộ trong công tác quản lý nhà nước mà còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn ngày càng cao về an toàn phòng cháy chữa cháy trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Các quy định này sẽ góp phần nâng cao ý thức cộng đồng về trách nhiệm phòng ngừa, đồng thời tạo ra một môi trường sống an toàn hơn cho mọi người dân.

Những nội dung cơ bản của Luật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ
Những nội dung cơ bản của Luật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ

Vâng, So với Luật hiện hành, Luật PCCC và CNCH bổ sung nhiều quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của từng chủ thể trong công tác PCCC. Mời LS phân tích cụ thể hơn về nội dung này

Luật Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn cứu hộ (PCCC và CNCH) năm 2024 đã bổ sung và làm rõ hơn trách nhiệm của từng chủ thể trong công tác PCCC, nhằm khắc phục những bất cập trong Luật hiện hành và đảm bảo hiệu quả cao hơn trong việc phòng ngừa và xử lý cháy nổ. Dưới đây là phân tích chi tiết về trách nhiệm của các chủ thể được quy định trong Luật:

Thứ nhất, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là Bộ Công an, giữ vai trò trung tâm trong việc hoạch định chính sách, ban hành tiêu chuẩn và quy chuẩn an toàn PCCC. Luật quy định rõ trách nhiệm từng cấp, từ trung ương đến địa phương. Bộ Công an chịu trách nhiệm hướng dẫn và tổ chức thực hiện các chính sách quốc gia về PCCC và CNCH, đồng thời kiểm tra, giám sát việc thực hiện tại các ngành, lĩnh vực và địa phương. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng phương án PCCC phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, tổ chức diễn tập và giám sát việc thực hiện của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn. Sự phân định này giúp đảm bảo tính đồng bộ và trách nhiệm cụ thể, tránh tình trạng “chồng chéo” hoặc “bỏ sót” trong quản lý.

Thứ hai, trách nhiệm của chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình. Chủ đầu tư và chủ sở hữu các công trình được yêu cầu thực hiện đầy đủ trách nhiệm từ giai đoạn thiết kế, xây dựng, đến vận hành và bảo trì hệ thống PCCC. Cụ thể, trong giai đoạn thiết kế và xây dựng, chủ đầu tư phải tuân thủ các tiêu chuẩn quốc gia về an toàn cháy nổ, bao gồm việc bố trí lối thoát hiểm, trang bị hệ thống báo cháy và chữa cháy phù hợp. Trong giai đoạn vận hành, chủ sở hữu công trình phải định kỳ kiểm tra và bảo trì hệ thống PCCC, đảm bảo luôn trong tình trạng sẵn sàng hoạt động. Việc không thực hiện đúng trách nhiệm này có thể bị xử lý hành chính hoặc đình chỉ hoạt động của công trình.

Thứ ba, trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các cơ sở có nguy cơ cháy nổ cao, Luật đặt ra những yêu cầu khắt khe hơn về đánh giá nguy cơ, xây dựng phương án PCCC, và trang bị thiết bị chữa cháy hiện đại. Các cơ sở này phải định kỳ báo cáo tình hình an toàn cháy nổ, đồng thời phối hợp với lực lượng chức năng để tổ chức diễn tập phương án chữa cháy và cứu nạn. Ngoài ra, chủ cơ sở cần tổ chức tập huấn cho nhân viên, nâng cao kỹ năng ứng phó và thoát hiểm khi xảy ra sự cố.

Thứ tư, trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng. Cá nhân và cộng đồng có vai trò quan trọng trong công tác phòng cháy chữa cháy, đặc biệt tại các khu dân cư, nơi nguy cơ cháy nổ thường xuất phát từ thói quen sử dụng điện, gas không an toàn. Luật yêu cầu mọi cá nhân tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn cháy nổ, như không sử dụng thiết bị điện quá tải, không để nguồn nhiệt gần vật dễ cháy, và lắp đặt các thiết bị PCCC tối thiểu trong gia đình. Cộng đồng, đặc biệt là tại các khu dân cư đông đúc, được khuyến khích tham gia các đội PCCC dân phòng, đóng vai trò giám sát và hỗ trợ trong tình huống khẩn cấp.

Thứ năm, trách nhiệm của lực lượng phòng cháy chữa cháy. Lực lượng PCCC chuyên trách và bán chuyên trách có trách nhiệm bảo đảm khả năng sẵn sàng ứng phó với các tình huống cháy nổ và cứu nạn cứu hộ. Lực lượng chuyên trách được yêu cầu tham gia đào tạo định kỳ để nâng cao kỹ năng xử lý các tình huống đặc thù, như cháy nổ hóa chất, cháy rừng, hoặc sự cố tại khu công nghiệp. Lực lượng bán chuyên trách tại cơ sở cũng được tổ chức huấn luyện để hỗ trợ kịp thời trong các trường hợp khẩn cấp. Luật cũng bổ sung quy định bảo vệ quyền lợi của lực lượng này, như hỗ trợ tài chính hoặc chế độ đãi ngộ khi gặp rủi ro trong quá trình làm nhiệm vụ.

Cuối cùng, là cơ chế phối hợp liên ngành. Luật nhấn mạnh sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện công tác PCCC. Các ngành đặc thù như xây dựng, giao thông, năng lượng, và y tế đều phải tham gia xây dựng và thực hiện các phương án PCCC phù hợp với lĩnh vực của mình. Sự phối hợp liên ngành này giúp giảm thiểu khoảng trống trách nhiệm, đặc biệt trong các sự cố phức tạp như cháy tại khu công nghiệp lớn hoặc tai nạn liên quan đến nhiều lĩnh vực.

Như vậy, việc bổ sung các quy định chi tiết về trách nhiệm của từng chủ thể không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tăng cường ý thức trách nhiệm trong công tác phòng cháy chữa cháy. Điều này góp phần xây dựng môi trường sống và làm việc an toàn, hạn chế tối đa thiệt hại do cháy nổ gây ra.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch công ty luật SBLAW 19
Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch công ty luật SBLAW

Trong Luật PCCC và CNCH cũng bổ sung các quy định cụ thể về điều kiện an toàn PCCC cho một số đối tượng nhà, công trình mà Luật hiện hành chưa điều chỉnh, cụ thể là điều kiện an toàn PCCC đối với nhà ở, nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh – loại hình nhà ở có diễn biến cháy nổ phức tạp trong thời gian vừa qua và cũng nhận được sự quan tâm của nhiều người dân. LS phân tích cụ thể hơn về những quy định này

Luật Phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (PCCC và CNCH) năm 2024 đã bổ sung nhiều nội dung mới nhằm hoàn thiện hơn so với Luật hiện hành, đặc biệt về điều kiện an toàn PCCC đối với nhà ở và nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh. Đây là một trong những điểm quan trọng, vì loại hình nhà ở này thường có nguy cơ cháy nổ cao, gây thiệt hại lớn về người và tài sản.

Theo Điều 20 Luật phòng cháy chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ quy định:

“Điều 20. Phòng cháy đối với nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh

Nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh phải bảo đảm các điều kiện an toàn phòng cháy theo quy định tại Điều 19 của Luật này và bảo đảm các điều kiện sau đây:

Có biển cấm, biển báo, biển chỉ dẫn về phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ;

Khu vực sản xuất, kinh doanh hàng hóa có nguy cơ cháy, nổ phải có giải pháp ngăn cách hoặc ngăn cháy với khu vực để ở.

Nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh hàng hóa nguy hiểm về cháy, nổ phải bảo đảm các điều kiện an toàn phòng cháy quy định tại khoản 1 Điều này và bảo đảm các điều kiện sau đây:

Không bố trí gian phòng để ngủ trong khu vực sản xuất, kinh doanh;

Có phương tiện báo cháy, giải pháp thông gió, thiết bị báo rò rỉ khí cháy, khí độc theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;

Khu vực sản xuất, kinh doanh phải được ngăn cháy với lối thoát nạn của khu vực để ở.”

Cụ thể, đối với nhà ở riêng lẻ, Luật quy định phải trang bị thiết bị PCCC tối thiểu như bình chữa cháy, mặt nạ phòng độc, hệ thống báo cháy đơn giản; bố trí lối thoát hiểm an toàn, không bị chặn bởi vật cản; đồng thời đảm bảo hệ thống điện được kiểm tra, bảo trì định kỳ để hạn chế nguy cơ chập cháy.

Đối với nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh, Luật yêu cầu phân khu chức năng rõ ràng, khu vực kinh doanh phải tách biệt với khu vực sinh hoạt, mỗi khu vực cần có biện pháp PCCC riêng. Các nhà này cần trang bị hệ thống báo cháy tự động, chữa cháy bằng nước hoặc bọt tùy mức độ nguy cơ; lối thoát hiểm phải độc lập giữa khu vực kinh doanh và sinh hoạt, tránh tình trạng bị phong tỏa khi xảy ra sự cố. Ngoài ra, việc lưu trữ và sử dụng vật liệu dễ cháy như gas, hóa chất, sơn trong khu vực kinh doanh phải được quản lý nghiêm ngặt.

Luật cũng bổ sung các quy định về kiểm tra và giám sát, giao thẩm quyền cho cơ quan PCCC địa phương kiểm tra định kỳ cơ sở, hộ gia đình kết hợp kinh doanh để đảm bảo tuân thủ quy định. Các cơ sở vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm, bao gồm đình chỉ hoạt động hoặc buộc phải áp dụng các giải pháp kỹ thuật thay thế.

Những quy định này không chỉ giúp giảm thiểu nguy cơ cháy nổ mà còn tăng cường trách nhiệm của chủ nhà, chủ cơ sở kinh doanh trong việc đảm bảo an toàn PCCC, đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đây là bước tiến quan trọng, góp phần bảo vệ an toàn tính mạng và tài sản của người dân cũng như trật tự an toàn xã hội.

Luật PCCC và CHCN đã điều chỉnh một số yêu cầu cơ bản về phòng cháy đối với cơ sở kinh doanh, hoạt động thương mại, địa điểm làm việc, công trình. Việc quy định rõ ràng cụ thể như vậy sẽ tạo được những thuận lợi như thế nào đối với việc bảo đảm an toàn phòng cháy đối với từng loại hình cơ sở sản xuất, kinh doanh?

Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ (PCCC&CNCH) sửa đổi đã tiếp thu ý kiến từ các đại biểu Quốc hội và xã hội, bổ sung những quy định rõ ràng, cụ thể hơn về phòng cháy đối với từng loại hình cơ sở, đặc biệt là nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh. Việc phân loại và quy định chi tiết như vậy mang lại những lợi ích thiết thực, góp phần đảm bảo an toàn và hiệu quả trong công tác phòng cháy, chữa cháy.

Trước hết, việc tách riêng Điều 17 thành hai điều (Điều 19 về phòng cháy đối với nhà ở và Điều 20 về nhà ở kết hợp sản xuất kinh doanh) giúp giải quyết những bất cập trước đây. Nhà ở kết hợp kinh doanh được bổ sung các yêu cầu cụ thể như phân khu chức năng rõ ràng, trang bị thiết bị PCCC riêng biệt, đảm bảo lối thoát hiểm không bị cản trở. Điều này phù hợp với thực tế khi loại hình này thường có nguy cơ cháy nổ cao nhưng lại thiếu các quy định đặc thù.

Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh, việc quy định cụ thể tại Điều 22 về các yêu cầu như bố trí hệ thống báo cháy, chữa cháy phù hợp với từng ngành nghề; duy trì điều kiện an toàn về lối thoát hiểm và kiểm tra định kỳ giúp giảm nguy cơ cháy nổ ngay từ đầu. Quy định này tạo điều kiện cho cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát tốt hơn và xử lý nhanh chóng khi xảy ra vi phạm.

Ngoài ra, Luật giao thẩm quyền cụ thể cho các bộ ngành ban hành, sửa đổi tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về PCCC đối với từng loại hình cơ sở. Điều này không chỉ đảm bảo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật mà còn giúp từng ngành nghề có quy chuẩn riêng phù hợp với đặc thù hoạt động.

Đặc biệt, việc bổ sung quy định kiểm tra định kỳ các điều kiện PCCC đối với nhà ở, cơ sở kinh doanh sẽ giúp phát hiện và khắc phục sớm các nguy cơ tiềm ẩn. Những nội dung này khuyến khích người dân và doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc hơn trách nhiệm trong việc đảm bảo an toàn, đồng thời nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật về PCCC.

Các quy định mới không chỉ tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước mà còn góp phần tạo môi trường kinh doanh an toàn, bền vững, bảo vệ tính mạng và tài sản cho người dân. Với việc điều chỉnh chi tiết như vậy, Luật PCCC&CNCH sửa đổi kỳ vọng đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn và đảm bảo an toàn toàn diện cho xã hội.

Như LS vừa trao đổi có rất nhiều những điểm mới, những điều bổ sung trong luật PCCC và CNCH. Nhưng có một vấn đề, đối với các cơ sở, công trình không bảo đảm yêu cầu về PCCC được đưa vào sử dụng trước ngày Luật PCCC và CNCH có hiệu lực thi hành thì luật PCCC và CNCH có quy định sẽ bị xử lý như thế nào không, thưa LS?

Căn cứ theo Điều 56 Luật quy định cụ thể về việc xử lý đối với các cơ sở không bảo đảm yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy được đưa vào sử dụng trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, cụ thể:

“Đối với các cơ sở không bảo đảm yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy và không có khả năng khắc phục theo các tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật tại thời điểm đưa vào hoạt động đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo quy định sau đây:

1.Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phân loại, lập và công bố danh sách cơ sở không bảo đảm yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy và không có khả năng khắc phục theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tại thời điểm đưa vào hoạt động đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành trên địa bàn quản lý; quy định về cải tạo, chỉnh trang đối với các khu vực đô thị không bảo đảm khoảng cách ngăn cháy, chống cháy lan, hạ tầng giao thông, nguồn nước phục vụ chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ theo quy định của pháp luật, quy chuẩn kỹ thuật trong hoạt động phòng cháy và chữa cháy.

Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành theo quy định của pháp luật về xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an quy định giải pháp kỹ thuật nâng cao an toàn phòng cháy, chữa cháy cho các công trình không bảo đảm yêu cầu phòng cháy, chữa cháy thuộc thẩm quyền quản lý.

Người đứng đầu cơ sở căn cứ hiện trạng kiến trúc, kết cấu, công năng, thiết bị, dây chuyền sản xuất lựa chọn giải pháp kỹ thuật tương ứng quy định tại khoản 2 Điều này để tăng cường giải pháp kỹ thuật bảo đảm an toàn phòng cháy và chữa cháy; tổ chức khắc phục theo các giải pháp kỹ thuật đã lựa chọn, chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện, báo cáo bằng văn bản gửi cơ quan quản lý trực tiếp về phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ sau khi hoàn thành việc khắc phục và phải duy trì giải pháp kỹ thuật đã áp dụng trong suốt quá trình hoạt động.

Đối với cơ sở không thể áp dụng được giải pháp kỹ thuật theo quy định tại khoản 2 Điều này thì phải chuyển đổi công năng phù hợp với quy mô, tính chất hoạt động của cơ sở.

Chính phủ quy định về lộ trình thực hiện Điều này.”

Như vậy, Luật PCCC và CNCH năm 2024 đã xây dựng cơ chế xử lý linh hoạt nhưng nghiêm minh đối với các cơ sở, công trình không đảm bảo an toàn PCCC trước ngày luật có hiệu lực. Các quy định này không chỉ giúp giải quyết những tồn tại pháp lý mà còn đảm bảo cân bằng giữa yêu cầu an toàn và quyền lợi của các chủ sở hữu, góp phần xây dựng môi trường sống và làm việc an toàn, bền vững.

Tham khảo thêm >> Tư vấn pháp luật chính xác, hiệu quả

0/5 (0 Reviews)

Tư vấn pháp lý

Liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn 24/7

    Bài viết liên quan