Những điều cần biết của quy định pháp luật về hiến, ghép cơ thể người

Nội dung bài viết

(LSVN) - Việc hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác được xem là một quyền cơ bản của mỗi công dân trong xã hội. Có rất nhiều người được cứu sống, được khỏe mạnh khi nhận một phần mô, nội tạng của người hiến tặng. Mô, bộ phận cơ thể đó không chết đi mà sống cùng với người được hiến tặng. Đây cũng được xem là một hành động đẹp, mang tính nhân đạo của người cho đối với người nhận, thể hiện tình tương thân tương ái trong cộng đồng. Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Công ty luật SB Law tư vấn các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này như sau:

1. Nguyên tắc trong việc hiến mô, tạng

Tại Điều 4 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận trên cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định các nguyên tắc trong việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác đó là: Tự nguyện đối với người hiến, người được ghép. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học. Không nhằm mục đích thương mại. Giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

Đồng thời căn cứ tại điểm a, khoản 5, Điều 44 Nghị định 117/2020/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tế thì hành vi tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép, trừ trường hợp có sự đồng ý bằng văn bản của các bên hoặc pháp luật có quy định khác sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.

Do đó, nếu một cơ sở nào đó thực hiện kết nối giữa người hiến tim và người nhận tim dưới bất cứ hình thức nào đều là không đúng quy định là vi phạm pháp luật. Còn nếu người nhận tha thiết gặp người hiến, họ sẽ tìm cách để gặp phía gia đình người hiến, còn nếu người nhận không muốn đến và muốn giữ cuộc sống riêng tư thì người ta hoàn toàn có quyền đó. Việc để các bên mang ơn nhau có thể làm mất đi tính nhân văn của nghĩa cử hiến tim cứu người.

2. Độ tuổi được hiến mô, tạng

Về độ tuổi được hiến mô, tạng, bộ phận cơ thể, tại Điều 5 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006, quy định: Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác.

3. Trình tự, thủ tục đăng ký hiến mô, tạng

Việc đăng ký hiến mô, tạng, bộ phận cơ thể ở người sống và sau khi chết được thực hiện theo trình tự sau:

Trước tiên, người có đủ điều kiện quy định bày tỏ nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc sau khi chết với cơ sở y tế. Sau khi nhận được thông tin của người có nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể người, cơ sở y tế có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm Điều phối Quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người.

Khi nhận được thông báo về trường hợp hiến mô, bộ phận cơ thể người, Trung tâm Điều phối Quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người có trách nhiệm thông báo cho cơ sở y tế đủ điều kiện lấy, ghép mô, tạng để tiến hành các thủ tục đăng ký cho người hiến.

Sau khi nhận được thông báo của Trung tâm Điều phối Quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người, cơ sở y tế: Trực tiếp gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan đến hiến, lấy mô, bộ phận cơ thể người; Hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; thực hiện việc kiểm tra sức khỏe cho người hiến; Cấp thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết cho người hiến (với trường hợp hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sau khi chết); Báo cáo danh sách người đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống (Với trường hợp hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết thì báo cáo về danh sách người đăng ký đã được cấp thẻ đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết) cho Trung tâm Điều phối Quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người.

Việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống có hiệu lực kể từ khi cơ sở y tế nhận đơn đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể ở người sống. Trong khi đó, việc đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết có hiệu lực kể từ khi người đăng ký được cấp thẻ đăng ký hiến.

4. Quy định của pháp luật về quyền của người cho tạng, quyền của gia đình người cho tạng, quyền của người nhận tạng

Hiện nay, pháp luật chỉ có quy định về quyền của người hiến mô, tạng chứ không quy định cụ thể quyền của người nhận tạng. Cụ thể, Điều 17 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 quy định quyền lợi của người hiến mô, tạng như sau:

- Người đã hiến mô được chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí ngay sau khi thực hiện việc hiến mô tại cơ sở y tế.

- Người đã hiến bộ phận cơ thể người có các quyền lợi sau đây:
• Được chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí ngay sau khi thực hiện việc hiến bộ phận cơ thể người tại cơ sở y tế và được khám sức khỏe định kỳ miễn phí;
• Được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí;
• Được ưu tiên ghép mô, bộ phận cơ thể người khi có chỉ định ghép của cơ sở y tế;
• Được tặng Kỷ niệm chương vì sức khỏe nhân dân theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Ngoài ra, nguời hiến mô, tạng nếu còn sống sẽ được hưởng chế độ khám sức khỏe định kỳ theo Thông tư số 104/2017/TT – BTC của Bộ Tài chính quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ đối với người đã hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác. Trong trường hợp người hiến tạng qua đời, nếu gia đình có mong muốn tổ chức tang lễ và mai táng thì sẽ được hỗ trợ mai táng phí bằng 10 tháng lương cơ sở.

5. Các hành vi bị cấm khi hiến mô, tạng

- Việc hiến tặng mô, tạng còn phải bảo đảm nguyên tắc, tự nguyện đối với người hiến, người được ghép. Vì mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học, không nhằm mục đích thương mại. Đồng thời, phải giữ bí mật về các thông tin có liên quan đến người hiến, người được ghép, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.

- Theo quy định tại Điều 5 của Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 thì chỉ những người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác. Như vậy, nếu không đủ các điều kiện trên, sẽ bị nghiêm cấm hiến, lấy và ghép tạng.

Ngoài ra, Điều 11 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 quy định các hành vi bị cấm gồm:
• Lấy trộm mô, bộ phận cơ thể người; lấy trộm xác.
• Ép buộc người khác phải cho mô, bộ phận cơ thể người hoặc lấy mô, bộ phận cơ thể của người không tự nguyện hiến.
• Mua, bán mô, bộ phận cơ thể người; mua, bán xác.
• Lấy, ghép, sử dụng, lưu giữ mô, bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại.
• Lấy mô, bộ phận cơ thể ở người sống dưới mười tám tuổi.
• Ghép mô, bộ phận cơ thể của người bị nhiễm bệnh theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Y tế quy định.
• Cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời.
• Quảng cáo, môi giới việc hiến, nhận bộ phận cơ thể người vì mục đích thương mại.
• Tiết lộ thông tin, bí mật về người hiến và người được ghép trái với quy định của pháp luật.
• Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm sai lệch kết quả xác định chết não.

Nếu cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi bị cấm trên thì sẽ bị xử phạt theo Điều 44 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế với mức phạt tiền cao nhất là 100 triệu đồng kèm các hình phạt bổ sung và khắc phục hậu quả. Trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì người vi phạm có thể bị truy cứu về Tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với mức hình phạt cao nhất là tù chung thân.

Nguồn bài viết: https://lsvn.vn/nhung-dieu-can-biet-cua-quy-dinh-phap-luat-ve-hien-ghep-co-the-nguoi1616685542.html

0/5 (0 Reviews)

Tư vấn pháp lý

Liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn 24/7

    Bài viết liên quan