Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài khoản thanh toán người dùng cho cơ quan quản lý thuế

Nội dung bài viết

SBLAW trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của luật sư Nguyễn Thanh Hà trên báo về vấn đề Ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài khoản thanh toán người dùng cho cơ quan quản lý thuế

1. Theo Nghị định, từ 5/12, ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp các thông tin về tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng cho cơ quan quản lý thuế. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh lo ngại về việc bảo mật thông tin khi cơ quan thuế được phép tiếp cận thông tin giao dịch của họ. Anh nhận định như thế nào về vấn đề này?

Trả lời :

Điểm a Khoản 2 Điều 30 Nghị định 126/2020/NĐ – CP quy định ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của từng người nộp thuế bao gồm: tên chủ tài khoản, số hiệu tài khoản theo Mã số thuế đã được cơ quan quản lý thuế cấp, ngày mở tài khoản, ngày đóng tài khoản.

Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin giao dịch qua tài khoản, số dư, số liệu giao dịch theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế để phục vụ cho mục đích thanh tra, kiểm tra xác định nghĩa vụ thuế phải nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành về quản lý thuế theo quy định của pháp luật về thuế.

Như vậy, các ngân hàng thương mại chỉ có thể cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của người nộp thuế mở tại ngân hàng sau khi có văn bản yêu cầu của Tổng cục Thuế với những cá nhân cụ thể cùng các lý do về nghi ngờ trốn thuế, kê khai thuế không chính xác, ...chứ không phải cung cấp thông tin tài khoản thanh toán của tất cả người nộp thuế.

Hơn nữa, Điểm d Khoản 2 Điều 30 Nghị định này cũng quy định: Cơ quan thuế sẽ có trách nhiệm bảo mật thông tin và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự an toàn của thông tin theo quy định của Luật Quản lý thuế và quy định của pháp luật có liên quan.

Cụ thể, Điều 99 Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định về bảo mật thông tin người nộp thuế như sau:

“Điều 99. Bảo mật thông tin người nộp thuế

1.Cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế, người đã là công chức quản lý thuế, cơ quan cung cấp, trao đổi thông tin người nộp thuế, tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế phải giữ bí mật thông tin người nộp thuế theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này và Điều 100 của Luật này...”.

Do đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các hộ kinh doanh không cần phải lo ngại về việc bảo mật thông tin khi cơ quan thuế được phép tiếp cận thông tin của họ.

2. Trên thế giới, các nước chống thất thu thuế trên môi trường thương mại điện tử bằng cách nào? Xin anh chia sẻ một số kinh nghiệm từ các nước khác.

Trả lời :

Hiện nay, để chống thất thu thuế, phần lớn các quốc gia đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý thu thuế. Mục đích chính của việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế không chỉ để cắt giảm chi phí thu thuế mà còn nâng cao chất lượng, tiêu chuẩn quản lý thuế hiện đại. Ví dụ, tại Thái Lan, Malaysia, Kenya và Uganda áp dụng công nghệ dịch vụ thuế trên điện thoại di động. Indonesia giới thiệu một chương trình có tên gọi là “Biết người nộp thuế” trong đó cán bộ thuế được giao nhiệm vụ theo dõi và giám sát một số trường hợp cụ thể (khoảng 1.500 trường hợp) mà họ đã quen thuộc. Các dữ liệu người nộp thuế được ghi lại vào hệ thống dữ liệu của máy tính, qua đó quản lý các doanh nghiệp đăng ký. Khi cơ sở dữ liệu đầy đủ thì việc quản lý hệ thống thu thuế sẽ đạt hiệu quả hơn.

Các quốc gia khác sử dụng hóa đơn điện tử thay thế cho hóa đơn giấy có tác động làm giảm đáng kể những chi phí phát sinh cho doanh nghiệp (do cho phép tuân thủ một cách tự động). Đi đầu trong lĩnh vực này là các quốc gia Mỹ La Tinh, ngoài ra, Trung Quốc và một số nước Châu Âu đang sử dụng hóa đơn điện tử để giảm thiểu hành vi trốn thuế/gian lận thuế Giá trị gia tăng. Hà Lan ứng dụng 100% công nghệ thông tin vào quản lý thuế và sử dụng các ứng dụng truyền thông xã hội.

3. Ngoài ra, Nghị định 126 còn quy định ngân hàng thương mại thực hiện khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, có hoạt động kinh doanh thương mại điên tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân Việt Nam. Quy định như vậy có hợp lý không, thưa anh?

Trả lời :

Khoản 3 Điều 30 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định: Các ngân hàng thương mại, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thực hiện Khấu trừ, nộp thay nghĩa vụ thuế phải nộp của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam (sau đây gọi là nhà cung cấp ở nước ngoài) theo quy định tại Khoản 3 Điều 27 Luật Quản lý thuế năm 2019.

Quy định này được ban hành nhằm hạn chế tối đa việc thất thu thuế đối với các nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam vì mặc dù không có trụ sở thường trú tại Việt Nam, các nhà cung cấp nước ngoài cũng sẽ thực thiện các giao dịch thông qua ngân hàng Việt Nam để chuyển tiền qua nước ngoài. Một khi nguồn tiền đã chuyển ra nước ngoài, sẽ cực kỳ khó khăn khi yêu cầu các nhà cũng cấp nước ngoài hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của họ. Vì vậy, nếu chúng ta có thể thực hiện thu thuế ngay khi nguồn tiền vẫn ở trên lãnh thổ Việt Nam thì khả năng giảm thiểu hiện tượng thất thu thuế là rất cao.

Tuy nhiên, thực tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động khác ví dụ như chính sách giữa ngân hàng và nhà cung cấp nước ngoài; khả năng quản lý được các tài khoản mà nhà cung cấp nước ngoài mở; mức độ hợp tác giữa các bên; chi phí thực hiện quy định trong thực tế…

Hướng đi của chúng ta có thể được coi là tương đối giống và học tập theo các quy định mà Liên minh Châu Âu ban hành. Ví dụ, Châu Âu cũng đã đề xuất việc tạo ra các nghĩa vụ đối với các nhà cung cấp dịch vụ tín dụng hoặc các bên trung gian thanh toán trong việc lưu trữ hồ sơ về những giao dịch thanh toán xuyên biên giới. Vào năm 2018, họ cũng có xây dựng chương trình hợp tác giữa cơ quan thuế và các nhà cũng cấp dịch vụ trung gian thanh toán.

Dựa vào quy định mới được đưa ra trong Nghị định số 126/2020/NĐ-CP, chúng ta có thể phần nào giải quyết được tình trạng thất thu thuế trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, quy định này còn giúp các cá nhân, tổ chức có thể nâng cao ý thức trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế của mình.

Thực tế thời gian qua nhiều cá nhân nhận được thu nhập rất lớn từ các công ty đa quốc gia hoặc thông qua các công ty nước ngoài mà không đóng thuế là điều không công bằng đối với xã hội. Việc đưa quy định yêu cầu ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản, khấu trừ, nộp thay thuế sẽ giúp cho Luật Quản lý thuế năm 2019 sẽ có tính pháp lý cao hơn và hiệu quả thực hiện trên thực tế cũng tốt hơn.

0/5 (0 Reviews)

Tư vấn pháp lý

Liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn 24/7

    Bài viết liên quan