Khuôn khổ pháp lý cho kinh tế xanh: Việt Nam mới đi được ¼ chặng đường

Nội dung bài viết

Về vấn đề xây dựng khuân khổ pháp lý cho tài chính xanh, Luật sư Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch SBLAW khằng định dù đã có nhiều chính sách hỗ trợ nhưng cho tới nay, Việt Nam mới đi được ¼ chặng đường.

Theo đó, ông Hà cho biết, chúng ta đã có sổ tay hướng dẫn tín dụng xanh, trái phiếu xanh, trái phiếu bền vững nhưng vẫn chưa có Danh mục phân loại xanh, các tiêu chí về môi trường. Đây là lý do chủ trương đã có nhưng tín dụng với các dự án xanh mới chỉ chiếm 4 - 5% tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế.

Hiện nay, kinh tế xanh đã có những khuôn khổ pháp lý như thế nào, thưa ông?

Việt Nam là một trong những quốc gia thuộc nhóm tiên phong thúc đẩy phát triển kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn.

Để thực hiện điều này, ngày 25/9/2012, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, Chính phủ Việt Nam khẳng định: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”.

Trong đó, có ba nhiệm vụ chiến lược được đề ra: Thứ nhất, giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; Thứ hai, xanh hóa sản xuất; Thứ ba, xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.

Ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 để thay thế cho Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Theo đó, Chính phủ Việt Nam tiếp tục khẳng định “Tăng trưởng xanh góp phần thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội; hướng tới nền kinh tế xanh, trung hòa các-bon và đóng góp vào mục tiêu hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu”.

Mục tiêu là (i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP; (ii) Xanh hóa các ngành kinh tế; (iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững và (iv) Xanh hóa quá trình chuyển đổi trên nguyên tắc bình đẳng, bao trùm, nâng cao năng lực chống chịu.

Đồng thời, theo Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh cho giai đoạn 2014 - 2020, bao gồm 12 nhóm với 66 hoạt động cụ thể trải rộng trên 4 chủ đề chính: xây dựng thể chế quốc gia và kế hoạch hành động tăng trưởng xanh tại địa phương (08 hoạt động); giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo (20 hoạt động); thực hiện xanh hóa sản xuất (25 hoạt động); và thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững (13 hoạt động).

Tiếp theo đó, ngày 24/3/2015 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Chỉ thị số 03/CT-NHNN về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lí rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; ban hành Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 07/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam và gần đây là Thông tư số 17/2022/TT-NHNN ngày 23/12/2022 hướng dẫn thực hiện quản lý rủi ro về môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín dụng (TCTD), chi nhánh ngân hàng nước ngoài (có hiệu lực từ ngày 01/6/2023).

Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2018 - 2019, Ngân hàng nhà nước đã phối hợp với Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC) ban hành Sổ tay hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động cấp tín dụng cho 15 ngành kinh tế.

Đây được xem là cẩm nang giúp các tổ chức tín dụng nhận diện và chủ động quản lí các rủi ro môi trường - xã hội có thể gây tác động xấu, ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án được cấp tín dụng cũng như khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó giúp các tổ chức tín dụng giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng.

Ngân hàng nhà nước cũng tích cực phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường - cơ quan được giao đầu mối xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục phân loại xanh quốc gia nhằm tạo cơ chế, hành lang pháp lý rõ ràng, thuận lợi để triển khai các công cụ kinh tế hỗ trợ tăng trưởng xanh quốc gia, bao gồm hoạt động tài trợ xanh của các tổ chức tín dụng.

Những nỗ lực đã thực hiện là điều không thể phủ nhận nhưng công bằng mà nói tăng trưởng xanh được Việt Nam mới đi được 1/4 chặng đường hoàn thiện khung chính sách cho tăng trưởng xanh, trong đó yếu nhất là ở khâu thực thi chính sách.

Chúng ta đã có sổ tay hướng dẫn tín dụng xanh, trái phiếu xanh, trái phiếu bền vững nhưng vẫn chưa có Danh mục phân loại xanh, các tiêu chí về môi trường. Đây là lý do chủ trương đã có nhưng tín dụng với các dự án xanh mới chỉ chiếm 4 - 5% tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế.

Bên cạnh đó, sự hỗ trợ, can thiệp của Nhà nước vào thị trường còn thấp, doanh nghiệp chưa thấy đủ sự hấp dẫn của trái phiếu xanh, tín dụng xanh để tham gia vào thị trường.

Khuôn khổ pháp lý cho kinh tế xanh
Khuôn khổ pháp lý cho kinh tế xanh

Ông có thể nói rõ hơn về điều này?

Thực tế cho thấy việc phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế nhất định. Một trong số đó như đã được nêu ở trên là việc chưa có danh mục phân loại xanh quốc gia. Danh mục phân loại xanh là căn cứ để Ngân hàng Nhà nước đánh giá được hiệu quả của các chính sách, giải pháp trong chính sách tín dụng góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh quốc gia. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các tổ chức tín dụng xác định định mức, quy mô đầu tư, xây dựng và triển khai các chính sách, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng phù hợp.

Theo đại diện Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, mặc dù Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực ASEAN xây dựng được một hướng dẫn thống kê về tín dụng theo phân loại xanh, tuy nhiên hướng dẫn về 12 ngành xanh do NHNN ban hành từ năm 2017 chưa phải là danh mục phân loại xanh quốc gia.

Hiện chưa có sự thống nhất về việc phân loại lĩnh vực xanh của các bộ, ngành khác. Do đó, chưa đảm bảo xác định, thống kê đầy đủ nguồn lực tín dụng xanh của ngành Ngân hàng cho nền kinh tế nên tỷ trọng tín dụng xanh mới chiếm 4,5% dư nợ nền kinh tế.

Việc thiếu các tiêu chí và danh mục phân loại xanh rõ ràng khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc xác định các dự án đủ tiêu chuẩn để nhận được tín dụng xanh. Đồng thời, sự thiếu hỗ trợ từ Nhà nước làm giảm tính hấp dẫn của các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh và tín dụng xanh, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không mặn mà tham gia vào các dự án xanh. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn mà còn làm chậm quá trình phát triển kinh tế xanh bền vững tại Việt Nam.

Ngoài ra, nhận thức của người dân về kinh tế xanh vẫn còn khá mới mẻ. Do đó, cần sự nghiên cứu và phổ biến kiến thức từ các nhà khoa học và chuyên gia đến các nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách, doanh nghiệp và người dân.

Nguồn lực tài chính cho mục tiêu xanh hóa nền kinh tế Việt Nam vẫn còn hạn chế trong bối cảnh ngân sách nhà nước eo hẹp và chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19.

Hơn nữa, xung đột quân sự Nga - Ukraine và những biến động từ nền kinh tế thế giới đã tác động không nhỏ đến kinh tế vĩ mô của Việt Nam, làm cho quá trình hồi phục kinh tế gặp nhiều khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chất lượng nguồn lao động cho kinh tế xanh tại Việt Nam cũng chưa đáp ứng được yêu cầu về trình độ khoa học và công nghệ cao của chiến lược phát triển kinh tế xanh.

So với thế giới, dây chuyền sản xuất và công nghệ ở Việt Nam phần lớn còn lạc hậu, tiêu tốn nhiều nhiên liệu và năng lượng. Vì vậy, việc áp dụng dây chuyền sản xuất hiện đại và công nghệ tiên tiến vào nền kinh tế xanh là một thách thức lớn, đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao để đảm nhiệm.

Liệu chúng ta phải khắc phục những điều này như thế nào?

Sau khi nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam và kinh nghiệm phát triển kinh tế xanh của một số quốc gia, để phát triển kinh tế xanh gắn với phát triển bền vững đất nước một cách toàn diện, vừa đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế vừa bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và hệ sinh thái cho tương lai, theo quan điểm của tôi, Việt Nam cần tập trung vào một số giải pháp sau:

Thứ nhất, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống chính sách hoàn chỉnh để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế xanh và hưởng lợi từ mô hình này. Lập kế hoạch chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế xanh qua các giai đoạn phát triển của đất nước, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, giảm sử dụng nguyên liệu hóa thạch, tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo. Xây dựng cơ cấu kinh tế xanh với ba trụ cột: nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ để thích ứng với biến đổi khí hậu. Ứng dụng công nghệ thông tin để dự báo và khắc phục sự cố môi trường; thiết lập các cơ chế báo cáo và phản hồi nhanh về môi trường; ban hành các chế tài xử lý các hoạt động kinh doanh gây tổn hại đến môi trường.

Thứ hai, Chính phủ cần tăng cường đầu tư hơn nữa vào phát triển và ứng dụng công nghệ cao, phát triển năng lượng, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu để đáp ứng yêu cầu của thị trường quốc tế; đảm bảo cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam không vi phạm các quy định về ô nhiễm môi trường, khí hậu.

Thứ ba, cần nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp về tầm quan trọng của phát triển xanh đối với tương lai dài hạn, góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Tổ chức các hội thảo, diễn đàn khoa học để chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm về phát triển kinh tế xanh.

Thứ tư, thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước để hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển dịch sang tăng trưởng xanh. Tăng cường hợp tác, giao lưu với cộng đồng quốc tế để tận dụng được sự hỗ trợ quốc tế nhằm đạt được các mục tiêu quốc gia về phát triển xanh. Đây là cơ sở giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo thanh khoản tài chính chuỗi cung ứng, giúp hỗ trợ vốn cho các dự án hạ tầng xanh. Đồng thời, cần tạo điều kiện thuận lợi cho những dự án đầu tư quy mô lớn, hiện đại, đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường, xã hội và quản trị; cũng như học tập kinh nghiệm phát triển xanh của các quốc gia tiên tiến để áp dụng vào Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Áp thuế chống phá giá với thép cán nóng nhập khẩu
Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Áp thuế chống phá giá với thép cán nóng nhập khẩu

Quốc tế xử lý vấn đề này như thế nào, Việt Nam có thể học gì từ họ, thưa ông?

Các nước trên thế giới đang xử lý vấn đề kinh tế xanh bằng nhiều biện pháp khác nhau, tập trung vào việc giảm thiểu tác động môi trường và thúc đẩy phát triển bền vững.

Châu Âu dẫn đầu trong việc thực hiện các chính sách xanh, với Liên minh Châu Âu (EU) triển khai Thỏa thuận Xanh Châu Âu (European Green Deal). Thỏa thuận này đặt mục tiêu biến EU thành khối kinh tế trung hòa carbon vào năm 2050. Các quốc gia như Đức và Pháp đã đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo, giao thông công cộng xanh và công nghệ giảm thiểu khí thải. Các chính sách khuyến khích như trợ giá cho xe điện và thuế carbon đã tạo động lực cho các doanh nghiệp và người dân chuyển đổi sang các lựa chọn thân thiện với môi trường.

Trung Quốc, mặc dù là nước phát thải lớn nhất thế giới, đã cam kết đạt đỉnh phát thải vào năm 2030 và trung hòa carbon vào năm 2060. Nước này đã đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo và phát triển công nghệ xanh, bao gồm việc xây dựng các nhà máy điện mặt trời và gió lớn nhất thế giới. Báo cáo cho thấy Trung Quốc đã lắp đặt gần 350 gigawatt công suất năng lượng tái tạo mới trong năm 2023, hơn một nửa tổng công suất toàn cầu và nếu nền kinh tế lớn thứ hai thế giới duy trì tốc độ này, Trung Quốc có thể sẽ vượt mục tiêu năm 2030 trong năm nay.

Việt Nam có thể học hỏi rất nhiều từ các nước này trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế xanh.

Trước hết, Việt Nam cần đầu tư mạnh vào năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời và điện gió. Các chính sách khuyến khích, như trợ giá cho việc lắp đặt hệ thống năng lượng tái tạo và thuế carbon, có thể thúc đẩy người dân và doanh nghiệp chuyển đổi sang các nguồn năng lượng sạch. Hơn nữa, Việt Nam nên tăng cường nghiên cứu và phát triển công nghệ lưu trữ năng lượng để tận dụng tối đa các nguồn năng lượng tái tạo.

Ngoài ra, Việt Nam có thể học hỏi từ các mô hình giao thông công cộng xanh của châu Âu và Bắc Mỹ. Việc phát triển hệ thống giao thông công cộng thân thiện với môi trường, như xe buýt điện và tàu điện ngầm, không chỉ giảm thiểu khí thải mà còn cải thiện chất lượng không khí và sức khỏe cộng đồng.

-Trân trọng cảm ơn ông!

Tham khảo thêm >> Dịch vụ tư vấn đầu tư

0/5 (0 Reviews)

Bài viết liên quan