Theo lề lối làm ăn nhỏ lẻ, những giao dịch đơn giản, không phức tạp, giá trị không lớn, lại tin tưởng nhau quá mức nên hai bên chủ yếu thỏa thuận bằng miệng với nhau.
Điều này trở thành một thói quen với nhiều người mà họ ít biết sự giao kết này mang nhiều rủi ro và không đảm bảo hoàn toàn được quyền lợi cho mình.
Hợp đồng miệng có giá trị pháp lý không?
Điều 119 Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định:
“Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”.
Như vậy, một số giao dịch dân sự không nhất thiết phải giao kết bằng văn bản, ví dụ như bạn mua bán những vật phẩm nhỏ lẻ, phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày tại chợ, thỏa thuận mua bán bằng miệng giữa người mua và người bán hàng, về nguyên tắc, cũng được coi là hợp đồng và có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với hai bên, theo đó, hợp đồng giao kết bằng miệng vẫn có hiệu lực pháp lý
Tuy nhiên một số giao dịch dân sự buộc phải thực hiện bằng văn bản, các quy định của Bộ luật dân sự hiện hành quy định, các hợp đồng có sự điều chỉnh đặc thù như Hợp đồng lao động, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng ủy quyền, … chỉ có giá trị pháp lý khi giao kết bằng văn bản, cụ thể hợp đồng mua bán nhà ở phải lập thành văn bản có công chứng hoặc chứng thực, còn hợp đồng mua bán tài sản (nói chung), hợp đồng vay tiền…
Do thỏa thuận bằng lời nói nên giá trị chứng minh rất thấp, nếu khởi kiện ra tòa án, nguyên đơn sẽ rất khó chứng minh là đã có thỏa thuận đó cũng như các nội dung của thỏa thuận nếu bị đơn phủ nhận. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:
“1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
c) Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ chứng minh …”.
Những lưu ý khi giao kết hợp đồng miệng
Vì vậy, nếu hợp đồng được thỏa thuận bằng miệng, trong quá trình thực hiện hợp đồng phải chú ý lưu giữ chứng cứ, cụ thể các bằng chứng, giấy tờ khác chứng minh có việc mua bán giữa hai bên như thư từ trao đổi giữa hai bên, biên bản giao nhận hàng, giao nhận tiền trong đó ghi rõ nội dung hàng hóa mua bán và tiền trả cho việc mua bán hàng hóa đó, thậm chí là băng ghi âm các cuộc điện thoại trao đổi giữa hai bên khi phát sinh tranh chấp, … hay nhờ người chứng kiến để họ làm chứng sau này nếu có tranh chấp, nhằm chứng minh được các thiệt hại thì có thể khởi kiện ra tòa án cấp huyện (nơi cư trú của người vi phạm) để yêu cầu giải quyết việc đòi người vi phạm bồi thường.
Thiết nghĩ, khi giao dịch, nên hạn chế tới mức tối đa các hợp đồng miệng để bảo vệ được chính bản thân mình. Với loại hợp đồng này, càng cẩn trọng càng tốt.