SBLAW trân trọng giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch SBLAW với cơ quan truyền thông về vấn đề Chậm hoàn thiện pháp luật ảnh hưởng thế nào tới cộng đồng doanh nghiệp?
Câu 1: Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được, hoạt động xây dựng pháp luật và công tác tổ chức thi hành pháp luật thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, nhược điểm. Ông có thể chỉ rõ những hạn chế bất cập trong hoạt động xây dựng PL và công tác tổ chức thi hành pháp luật thời gian qua đã tác động ảnh hưởng, gây khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp?
Luật sư trả lời
Một trong những hạn chế, bất cập lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và công tác tổ chức thi hành pháp luật là tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản luật và các văn bản dưới luật. Thực trạng này dẫn đến nhiều khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của doanh nghiệp và thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước. Sự chồng chéo, xung đột giữa các đạo luật với nhau, giữa luật chung và luật chuyên ngành, giữa văn bản hướng dẫn luật này và văn bản hướng dẫn luật khác, dẫn đến tình trạng “làm theo luật này thì đúng, luật khác thì sai”. Đặc biệt trong các lĩnh vực: Đầu tư, đất đai, xây dựng, kinh doanh bất động sản, …
Trong khi đó, công tác tổ chức thi hành pháp luật chưa kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chế tài pháp lý chưa thực sự nghiêm khắc, khả thi.
Câu 2: Nghị quyết số 27 – NQ/TW của BCH TW Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW đều nhấn mạnh một trong những nhiệm vụ quan trọng tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần đặt ra những yêu cầu gì đối với các cơ quan xây dựng pháp luật? Và đặt ra yêu cầu cụ thể gì về năng lực, trách nhiệm của những cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật?
Luật sư trả lời
Những yêu cầu đặt ra đối với các cơ quan xây dựng pháp luật:
- Xác định đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hơn về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, loại bỏ sự chồng chéo, bảo đảm thực hiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng pháp luật Đây là giải pháp rất căn bản để góp phần khắc phục những hạn chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo chất lượng các văn bản pháp luật.
- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, quy định chế độ trách nhiệm, chế tài xử lý vi phạm đối với tổ chức trong xây dựng pháp luật
Cần quy định chặt chẽ hơn về chế độ trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình về công tác xây dựng pháp luật. Quy định các chế tài pháp luật hợp lý, nghiêm khắc hơn đối với các chủ thể ban hành văn bản pháp luật sai trái, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền, lợi ích của các cá nhân, tổ chức.
Tăng cường công tác kiểm tra, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, xử lý kịp thời các sai phạm theo hướng: Xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan, đơn vị chủ trì soạn thảo; xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân trong việc tham mưu xây dựng, ban hành văn bản trái pháp luật; nâng cao trách nhiệm, chất lượng văn bản, phân công hợp lý hơn, phối hợp chặt chẽ hơn trong quá trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, tránh tình trạng “giữa đường đổi vai”.
- Thực hiện kiểm soát pháp luật - điều kiện quan trọng bảo đảm chất lượng, hiệu quả xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có ý nghĩa đầy đủ, hiệu lực, hiệu quả nhất khi bao quát cả việc kiểm soát hành vi và quyết định pháp luật - quyết định dưới dạng các văn bản pháp luật và các văn bản áp dụng pháp luật. Nếu xét riêng về phạm vi, tần suất tác động, số lượng các chủ thể chịu sự tác động thì có thể nói, sự tác động của các văn bản pháp luật rộng lớn hơn so với những hành vi pháp luật của các cá nhân, tổ chức.
Về cơ sở pháp lý, chúng ta đã có khá nhiều quy định liên quan đến kiểm soát pháp luật, kiểm soát quyền lực nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã đặt nguyên tắc cơ bản để xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp, Điều 119, các điều khác về thẩm quyền của Quốc hội - giám sát tối cao, thẩm quyền bãi bỏ các văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội (Điều 70). Thẩm quyền về giám sát, áp dụng chế tài đình chỉ, bãi bỏ đối với các văn bản pháp luật có sai trái cũng đã được quy định đối với các cơ quan nhà nước khác như Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ. Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015 cũng đã quy định về chế độ giám sát, kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, tất cả mọi văn bản quy phạm pháp luật đều phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát theo quy định của pháp luật.
Những yêu cầu đặt ra về năng lực, trách nhiệm của những cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật:
- Thực hiện nghiêm, nhất quán Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đây vừa là định hướng, vừa là giải pháp cơ bản, nhằm cụ thể hóa, “chuẩn hóa”, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, sáng tạo và bảo vệ cán bộ; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm những sai phạm trong công tác cán bộ. Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, thu hút, trọng dụng nhân tài.
- Tăng cường năng lực và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức tham gia xây dựng pháp luật, bảo đảm chất lượng của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Xây dựng chính sách, pháp luật là công việc rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi những người trực tiếp thực hiện phải có trình độ chuyên môn sâu, có năng lực phân tích chính sách và soạn thảo văn bản pháp luật, có ý thức trách nhiệm tuân thủ các quy định pháp luật. Để bảo đảm tính chuyên nghiệp, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia xây dựng chính sách, pháp luật được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về xây dựng chính sách và pháp luật. Đề xuất đưa dự án luật vào Chương trình xây dựng pháp luật phải có đầy đủ căn cứ khoa học và thực tiễn; dự liệu được hết các yếu tố ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng thực hiện. Trong văn bản pháp luật cần được thể hiện rõ ràng những vấn đề cơ bản như: Đối tượng có trách nhiệm thực hiện, cơ quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện, cơ quan áp dụng chế tài; cơ quan giải quyết tranh chấp; cơ quan cấp vốn; cơ quan giám sát và đánh giá; cơ quan ban hành các văn bản dưới luật.
Câu 3: Chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận khâu chưa mạnh trong thời gian qua đó là khâu tổ chức thi hành pháp luật. Bởi pháp luật có đầy đủ và chặt chẽ đến mấy, nếu khâu tổ chức thi hành không tốt thì pháp luật cũng không vào cuộc sống. Theo ông cần đặc biệt cụ thể hóa các giải pháp nào đối với cơ quan tổ chức thi hành pháp luật và cán bộ làm công tác tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật?
Luật sư trả lời
Thứ nhất, xác định xây dựng pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; gắn kết việc xây dựng pháp luật với tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật; Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật của cơ quan, đơn vị mình.
Thứ hai, cần chủ động rà soát các văn bản quy phạm pháp luật do HĐND, UBND cấp mình ban hành thuộc lĩnh vực ngành, địa phương quản lý để kịp thời đề xuất xử lý những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập hoặc không phù hợp thực tiễn nhằm phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, quyền con người, quyền công dân, hội nhập quốc tế, nhất là các điều ước quốc tế Việt Nam mới gia nhập. Chú trọng xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật theo phân cấp về tổ chức, bộ máy theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Thứ ba, thực hiện nghiêm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; chú trọng việc tổng kết thi hành pháp luật, khảo sát thực trạng quan hệ xã hội, đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động của văn bản, tiếp thu, giải trình đầy đủ, thực chất các ý kiến góp ý để đảm bảo tính khả thi của văn bản; nâng cao trách nhiệm, hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh về chất lượng, thời gian trình các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của HĐND, UBND theo lĩnh vực của sở, ngành mình quản lý.
Thứ tư, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; phân công rõ trách nhiệm của từng đơn vị, cá nhân trong nghiên cứu xây dựng, đề xuất chính sách và soạn thảo, trình văn bản quy phạm pháp luật; chú trọng kiểm tra, phát hiện ngăn chặn và kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi “tham nhũng, trục lợi chính sách”.
Bên cạnh đó, chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, xác định rõ cơ chế phân công, trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tổ chức thi hành pháp luật. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật; phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật; Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố cần lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời và có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để, đúng pháp luật đối với các vụ việc vi phạm trong tổ chức thi hành pháp luật.
Câu 4: Thực tế cho thấy vẫn còn khoảng cách giữa chính sách pháp luật của Nhà nước với đời sống sản xuất đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Để gia tăng hiệu quả của các chính sách đến với doanh nghiệp, theo ông cần tập trung vào những giải pháp nào? Những mong muốn của cộng đồng doanh nghiệp đối với công tác xây dựng chính sách pháp luật và công tác tổ chức thi hành pháp luật?
Luật sư trả lời
Việc trước tiên là cần khẩn trương tháo gỡ các vướng mắc, rào cản về pháp lý nhằm khơi thông nguồn lực cho đầu tư sản xuất kinh doanh.
Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện rà soát, tháo gỡ vướng mắc cho các dự án đầu tư đã được cấp phép, chưa triển khai hoặc đang triển khai nhằm khơi thông nguồn lực đầu tư cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế. Đẩy mạnh công tác thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công. Rà soát, tạo điều kiện xử lý nhanh các thủ tục đầu tư, xây dựng đối với các dự án bất động sản trên địa bàn đã đáp ứng đủ điều kiện để các doanh nghiệp bất động sản, xây dựng sớm triển khai theo quyết định đầu tư được phê duyệt để sớm hoàn thành, đưa sản phẩm ra thị trường.
Thứ hai, cộng đồng doanh nghiệp còn trông đợi rất nhiều vào các dự án luật dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua. Trong đó, có nhiều dự án luật quan trọng có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp như: Luật Đầu thầu (sửa đổi), Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Nhà ở (sửa đổi), Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi).
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực hiệu quả thi hành pháp luật, tạo môi trường kinh doanh an toàn, thực sự thông thoáng và thuận lợi là yếu tố cơ bản không thể thiếu để doanh nghiệp tập trung đầu tư kinh doanh, góp phần đưa nền kinh tế quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng cao và bền vững.
Ngoài ra, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần triển khai đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tạo chuyển biến mạnh trong chất lượng, hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật, hạn chế rủi ro, vướng mắc pháp lý trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Câu 5: Có thể nói cộng đồng doanh nghiệp đều có chung các mong muốn sau đối với cơ quan Nhà nước: Ban hành kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật; Kịp thời điều chỉnh, tháo gỡ hạn chế, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật; Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật; Phòng ngừa, giải quyết tốt, kịp thời các tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế, các kiến nghị, phản ánh, khiếu nại của nhà đầu tư; Xử lý kịp thời những vướng mắc, bất cập, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công khai, minh bạch và thông thoáng…
Tuy nhiên những mong muốn chính đáng và hợp pháp trên của cộng đồng DN, có lúc, có nơi chưa được giải quyết kịp thời thỏa đáng, thậm chí không được giải quyết hoặc kéo dài thời gian giải quyết, gây ảnh hưởng rất nặng nề đối với môi trường đầu tư kinh doanh, cản trở sự phát triển…
Trong bối cảnh tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới, những vấn đề này cần phải được khắc phục và giải quyết xử lý thấu đáo. Ông có thể hiến một vài kế để xử lý dứt điểm những vấn đề trên?
Luật sư trả lời
Trước tiên, cần việc xem xét, ban hành các dự án luật này có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp và người dân nhằm tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn, tạo sự đồng bộ, thống nhất với hệ thống pháp luật, nhất là với Luật Đất đai (sửa đổi) cũng như đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải cách thủ tục hành chính, tăng cường chất lượng quản trị, điều hành các tổ chức tín dụng và hoàn thiện hành lang pháp lý trong hoạt động xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật, giải quyết những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế, cơ chế, chính sách. Đồng thời, tiếp tục đổi mới việc triển khai công tác xây dựng pháp luật theo hướng kịp thời hơn, bám sát thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo; chuẩn bị dự thảo văn bản luật đồng thời với dự thảo nghị định, thông tư hướng dẫn.
Bên cạnh đó, chính quyền các cấp cần quan tâm chỉ đạo các cơ chức năng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến lĩnh vực đất đai, xây dựng, ... để kịp thời đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, tăng doanh thu, tạo việc làm cho người lao động.
Câu 6: Để thúc đẩy cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, bên cạnh nhiệm vụ hoàn thiện hệ thống pháp luật thì khâu tổ chức thi hành pháp luật cũng vô cùng quan trọng. Mà chủ thể tổ chức thi hành pháp luật không ai khác là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Trong bối cảnh tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới, theo ông cần đặt ra những yêu cầu cụ thể nào đối với đội ngũ cán bộ và công tác kiểm soát quyền lực cán bộ?
Luật sư trả lời
Thứ nhất, tăng cường giáo dục đạo đức, trau dồi phẩm chất, năng lực, ý thức trách nhiệm, tuân thủ kỷ luật, kỷ cương trong công tác cán bộ. Đảng ta yêu cầu: “Các cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo của địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức quán triệt và cụ thể hoá theo thẩm quyền để thực hiện nghiêm” Quy định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Cấp ủy, tổ chức đảng trực tiếp lãnh đạo công tác cán bộ ở các cấp, các ngành cần thường xuyên giáo dục ý thức chấp hành Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh; lối sống trong sạch, lành mạnh, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư cho đội ngũ cán bộ.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp, cơ chế, chính sách liên quan đến công tác cán bộ. “Sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”. Cần thường xuyên rà soát, ban hành các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, quy chế, quy trình, yêu cầu cho từng khâu của công tác cán bộ theo hướng mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch. Xác định rõ trách nhiệm của cơ quan tham mưu, của tập thể lãnh đạo, của cá nhân người đứng đầu và người trực tiếp làm công tác cán bộ, nhất là với những sai phạm, tiêu cực bị phát giác.
Các tiêu chuẩn, quy trình, quy chế trong công tác cán bộ cần phải được lượng hóa, minh bạch hóa nhằm phát hiện những người có đức, có tài, có phẩm chất tốt và năng lực phù hợp bố trí, sử dụng họ theo đúng tinh thần “dụng nhân như dụng mộc”; kịp thời phát hiện, thay thế những người yếu kém về phẩm chất, năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm nghiêm trọng kỷ luật của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước không để đến hết nhiệm kỳ. Cần có quy định cụ thể hơn nữa về đối tượng kê khai thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức làm công tác cán bộ, tránh hình thức. Cần có quy định cụ thể, mở rộng việc thi tuyển đối với các bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm hạn chế tối đa việc chạy chức, chạy quyền, tiêu cực trong công tác cán bộ.
Thứ ba, đổi mới mạnh mẽ khâu đánh giá cán bộ. Nâng cao chất lượng khâu đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí và thông qua sản phẩm cụ thể; gắn đánh giá cá nhân với tập thể, với kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Cần xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cụ thể của cán bộ, xác định đúng tiêu chuẩn từng loại cán bộ, có thước đo cụ thể hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ, công chức. Mở rộng diện tham gia đánh giá, các kênh đánh giá cán bộ, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò của nhân dân
Ngoài ra, thường xuyên kiểm tra, giám sát trong công tác cán bộ. Đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát, định kỳ, đột xuất, theo chuyên đề, chuyên ngành các cơ quan tham mưu, giúp việc và những người trực tiếp làm công tác cán bộ. Kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước liên quan đến công tác cán bộ. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các cơ quan dân cử, các cơ quan thông tấn, báo chí… thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình giám sát, phát hiện sai phạm trong công tác cán bộ.