Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law trả lời phỏng vấn với chủ đề CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ CỦA DOANH NGHIỆP KHI BỊ GIÁN ĐOẠN NGUỒN CUNG.
Từ nhiều năm nay các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp… thường xuyên kêu gọi phải gia tăng tỉ lệ nội địa hóa, chủ động nguồn nguyên vật liệu trong nước để giảm thiểu rủi ro.
Thế nhưng thực tế, việc sản xuất, kinh doanh trong nước vẫn phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài, đặc biệt là từ thị trường TQ. Việc thiếu hụt nguồn cung sẽ khiến cho DN Việt khó khăn vực dậy sau thời kỳ dịch bệnh covid-10 kéo dài. DN tháo gỡ một số nút thắt từ câu chuyện thiếu hụt nguồn cung này, cần làm gì?
Câu 1: Thưa luật sư, với lý do là đứt gãy chuỗi cung ứng nguyên vật liệu do ảnh hưởng của Dịch Covid-19 có được coi là lý do bất khả kháng để không bị phạt trong hợp đồng không ạ? Vì dịch covid-19 đã được công bố là dịch toàn cầu, là bất khả kháng ạ.
Trả lời:
Dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề; gây ra những tác động, phần lớn là tiêu cực, tới việc thực hiện các hợp đồng thương mại, bao gồm hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung cấp dịch vụ. Việc áp dụng quy định về sự kiện bất khả kháng nhằm mục đích miễn trách nhiệm đối với bên vi phạm nghĩa vụ trong bối cảnh dịch bệnh là mối quan tâm của nhiều doanh nghiệp.
Đại dịch Covid-19 tác động mạnh mẽ đến việc sản xuất và kinh doanh của nhiều doanh nghiệp: Sản xuất bị gián đoạn hoặc tạm ngừng, tiết giảm biên chế, thiếu nguyên vật liệu, không tiêu thụ được sản phẩm, đứt gãy chuỗi cung ứng, giảm đơn hàng, mất khả năng thu hồi nợ, giảm khả năng thanh toán, thiếu hụt chuyên gia...; việc thực hiện các hợp đồng thương mại, bao gồm cả hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung cấp dịch vụ bị gián đoạn và trong nhiều trường hợp không có khả năng thực hiện.
Việc diễn giải và chấp nhận/không chấp nhận Covid-19 nói chung hay một sự kiện xảy ra do tác động của Covid-19, ví dụ: Giãn cách xã hội ở từng địa phương, di chuyển phải có giấy đi đường, số lượng nhân công giảm, đứt gãy chuỗi cung ứng… là sự kiện bất khả kháng phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng và/hoặc quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng có liên quan, bao gồm pháp luật quốc gia và/hoặc pháp luật quốc tế.
Trong một số hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ, các bên đã đưa “dịch bệnh” vào danh sách các sự kiện bất khả kháng, nhưng cho đến nay, hãn hữu có trường hợp Covid-19 được nêu cụ thể trong danh sách này. Điều này chỉ có thể thuận lợi cho các doanh nghiệp áp dụng quy định về sự kiện bất khả kháng khi có được sự đồng thuận giữa các bên tham gia hợp đồng về sự kiện bất khả kháng này. Trong trường hợp các bên không thống nhất về cách hiểu và cách áp dụng sự kiện bất khả kháng đã thỏa thuận thì bên vi phạm cần phải có những căn cứ, lập luận và chứng cứ về mối liên hệ và ảnh hưởng trực tiếp của “dịch bệnh” hoặc “tác động của Covid-19” đến việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của bên vi phạm.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, các quy định pháp luật có liên quan không quy định về các trường hợp cụ thể liên quan tới Covid-19, việc xác định sự kiện bất khả kháng để được miễn trách nhiệm, thông thường sẽ tuân theo các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 với ba dấu hiệu: Khách quan; Không thể lường trước được; Không thể giải quyết, khắc phục được; với sự hỗ trợ của các tài liệu, chứng cứ về việc: đã xảy ra sự kiện bất khả kháng; Sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng; Bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép nhưng không thể khắc phục.
Trong mọi trường hợp, dù các bên có thỏa thuận hay không có thỏa thuận, để được miễn trách nhiệm do sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm nhất thiết phải thực hiện đầy đủ các quy định tại khoản 1 Điều 295 Luật Thương mại 2005, cụ thể là thông báo ngay cho bên kia bằng văn bản về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra và chứng minh về sự kiện bất khả kháng.
Câu 2: Vậy với việc bị chậm tiến độ thì trong các hợp đồng đã có quy định chung là sẽ đền bù bao nhiêu % giá trị hợp đồng hay do các đơn vị thương thảo mức đền bù chậm tiến độ?
Trả lời:
Các vấn đề liên quan đến việc chậm tiến độ do các bên thoả thuận trong hợp đồng, bởi căn bản hợp đồng là sự thoả thuận giữa hai bên để đạt được mục đích nhất định. Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về vấn đề này thì pháp luật nước ta quy định như sau:
Mức phạt vi phạm theo Luật thương mại
Theo Điều 301 Luật Thương Mại 2005 có quy định về mức phạt vi phạm như sau:
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.
Mức phạt vi phạm theo Bộ luật dân sự
Theo Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định về thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm:
- Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.
- Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
- Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.
Mức phạt vi phạm theo quy định của Luật Xây dựng
Đối với công trình xây dựng sử dụng vốn đầu tư công, vốn nhà nước ngoài đầu tư công, mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài mức phạt theo thỏa thuận, bên vi phạm hợp đồng còn phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, bên thứ ba (nếu có) theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan khác.
Điểm khác biệt về mức phạt giữa hai điều luật trên là do chủ thể, nội dung, đối tượng của hợp đồng quyết định. Trường hợp hợp đồng giao kết vì mục đích tiêu dùng sinh hoạt của hai cá nhân, tổ chức thì sẽ áp dụng Bộ luật dân sự. Trường hợp hợp đồng giao kết mà có một trong hai bên chủ thể là thương nhân với mục đích kinh doanh sinh lợi thì sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại.
Trong pháp luật dân sự thì không quy định cụ thể về mức phạt vi phạm mà đa số là thực hiện theo sự thỏa thuận của hai bên. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Mặc dù Luật Thương mại 2005 và Luật Xây dựng 2014 quy định “mức trần” phạt vi phạm như trên nhưng qua nghiên cứu các dự án xây dựng luật, chúng ta thấy không có sự giải trình về căn cứ quy định các “mức trần” này. Vì vậy, về lâu dài, khi có điều kiện sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại 2005 và Luật Xây dựng 2014.
Câu 3: Vậy theo luật sư, trong trường hợp thế này, chúng ta nên lựa chọn thương lượng giãn tiến độ, hay ngắn hợp đồng? Rủi ro của từng phương án về mặt pháp lý là như thế nào ạ?
Trả lời:
Việc phát sinh dịch Covid-19 là một tình huống pháp lý đặc biệt chưa có tiền lệ, các doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị để ứng phó. Cho nên sẽ không ngạc nhiên khi nhiều doanh nghiệp cảm thấy lúng túng trong hành xử khi không thể thực hiện được nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do hưởng của Covid-19.
Một khi hợp đồng được xác lập hợp pháp, đó là ‘Luật’ ràng buộc các bên, các bên phải thực hiện nó và đó là nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Vì thế, việc chấm dứt/huỷ bỏ hợp đồng là một giải pháp rất nghiêm trọng, một bên không thể tuỳ tiện áp dụng. Ngay cả khi có sự kiện bất khả kháng làm ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng, việc chấm dứt/huỷ bỏ cũng không luôn luôn được chấp nhận mà cần xem xét sự ảnh hưởng này ở mức độ, có làm cho mục đích khi giao kết có thể đạt được hay không.
Khoản 1 Điều 296 Luật thương mại nêu trên đã cho thấy ưu tiên hàng đầu khi có sự kiện bất khả kháng là ‘tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả’. Ở đây, phương án được khuyến nghị là kéo dài thêm thời gian thực hiện hợp đồng chứ không phải là chấm dứt/huỷ bỏ hợp đồng.
Trong quy định tại Điều 143 trên, Luật xây dựng theo hướng ‘điều chỉnh’ hợp đồng chứ không chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng khi xảy ra sự kiện bất khả kháng. Thực tế, các hợp đồng xây dựng thường có thời gian dài và việc dừng thi công do phải tuân thủ quyết định của cơ quan có thẩm quyền thường mang tính tạm thời. Vì vậy, nếu hợp đồng vẫn có thể được tiếp tục sau khi quyết định trên hết hiệu lực, không nên cho chấm dứt/huỷ bỏ hợp đồng. Một bên chỉ có thể chấm dứt/huỷ bỏ hợp đồng khi họ "không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng" do sự kiện bất khả kháng.
Trường hợp tiên lượng dịch Covid-19 có thể tiếp tục kéo dài thì bên có nguy cơ chịu thiệt hại cần chủ động gửi các văn bản, thông báo tiếp về việc hoãn, tạm dừng hoặc chấm dứt hợp đồng như một biện pháp để giảm thiểu thiệt hại do sự kiện bất khả kháng. Cả việc tạm hoãn kéo dài tiến độ bà việc chấm dứt hợp đồng đều là biện pháp giảm thiểu rủi ro cho cả hai bên, tuy nhiên với từng loại hợp đồng khác nhau thì sẽ có những ưu nhược điểm khác nhau.
Theo nguyên tắc thiện chí trong xác lập và thực hiện giao dịch dân sự, bên chịu ít ảnh hưởng hơn từ sự kiện bất khả kháng có nghĩa vụ phải xem xét các đề nghị của bên còn lại để thỏa thuận các biện pháp khắc phục ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng. Khuyến nghị các doanh nghiệp cần lưu ý theo dõi diễn biến Covid-19 để kịp thời có các biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu thiệt hại từ bất khả kháng. Việc giữ im lặng, không có các văn bản thông báo và xác lập các thỏa thuận nêu trên có thể gây bất lợi cho doanh nghiệp trong trường hợp có tranh chấp.
Câu 4: Vậy theo tư vấn của luật sư, có cách thức nào để chúng ta đưa ra giải pháp gỡ khó cho DN về mặt pháp lý? Đặc biệt với các doanh nghiệp đối tác mua hàng hóa của chúng ta là DN nước ngoài, vốn dĩ rất nguyên tắc về các điều khoản trong hợp đồng?
Trả lời:
Nếu trong hợp đồng không quy định rõ về nghĩa vụ và hành xử của mỗi bên khi gặp phải sự kiện bất khả kháng, thì việc trước tiên là bên vị phạm hợp đồng cần gửi thông báo cho bên còn lại về sự kiện bất khả kháng do dịch Covid-19. Trong thông báo cần ghi rõ: Thời điểm bắt đầu xác định dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng; Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với việc thực hiện hợp đồng của bên vi phạm; Các biện pháp mà bên đó đã hoặc sẽ thực hiện để hạn chế ảnh hưởng của dịch Covid-19; Dự liệu các thiệt hại có thể phát sinh do ảnh hưởng của Covid-19 và đề nghị bên còn lại xem xét, đàm phán và thống nhất về các biện pháp xử lý tài chính, nghĩa vụ tồn đọng của bên đó trước sự kiện bất khả kháng. Các biên bản thỏa thuận/làm việc này cần được lập thành văn bản/ phụ lục của Hợp đồng.
Ngoài việc khai thác các quy định về bất khả kháng với những ràng buộc nêu trên, các bên trong hợp đồng nên ngồi lại với nhau để cùng chia sẻ những khó khăn của nhau, tìm ra phương án ít thiệt hại nhất cho nhau. Việc ngồi lại với nhau là nên làm và pháp luật cũng có quy định thúc đẩy các bên làm việc đó. Bởi lẽ, BLDS đã quy định ‘cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực’ (khoản 3 Điều 3). Ở đây, yêu cầu về ‘thiện chí’ buộc các bên phải ngồi lại với nhau để tìm ra phương án tốt nhất cho các bên trước ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.
Thực tế, sự xuất hiện của dịch Covid-19 có thể làm cho doanh nghiệp xây dựng bỏ ra những chi phí chưa dự báo trước, làm cho hoàn cảnh thay đổi cơ bản sơ với lúc hợp đồng được giao kết.
Lúc này, các bên có thể khai thác Điều 420 BLDS về Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản để yêu cầu Toà án hay Trọng tài ‘sửa đổi hợp đồng’ nếu các bên không tự thoả thuận về việc thay đổi nội dung của hợp đồng.
Câu 5: và làm thế nào để hợp đồng với đơn vị bán nguyên liệu cho chúng ta, họ bị chậm giao hàng, chúng ta sẽ có thể có chi phí bù đắp cho việc chậm tiến độ với bên bán?
Trả lời:
Khi soạn thảo và giao kết hợp đồng thương mại, cần lưu ý xây dựng điều khoản ‘sự kiện bất khả kháng’ gồm những trường hợp nào (dịch bệnh, thiên tại, hỏa hoạn, chiến tranh, v.v.), hệ quả cụ thể đi kèm và nghĩa vụ thông báo khi xảy ra sự kiện bất khả kháng để giảm thiểu thiệt hại phát sinh.
Thông thường, khi xảy ra sự kiện bất khả kháng, hệ quả của nó sẽ là miễn trừ trách nhiệm đối với bên có nghĩa vụ (bên có nghĩa vụ không phải bồi thường). Tuy nhiên, các bên vẫn có thể thỏa thuận hệ quả ngược lại, cụ thể là bên có nghĩa vụ vẫn phải bồi thường, tùy vào nhu cầu cụ thể của các bên khi tham gia hợp đồng.