BẢO MẬT THÔNG TIN KHÁCH HÀNG KHI CUNG CẤP TÀI KHOẢN NGÂN HÀNG CHO CƠ QUAN THUẾ

Nội dung bài viết

Dự thảo Luật Quản lý thuế đang lấy ý kiến có đưa ra quy định Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin liên quan đến tài khoản của người nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế, gồm nội dung giao dịch tài khoản, số dư tài khoản người nộp thuế trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thuế.

Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, quy định này chắc chắn sẽ tạo tâm lý e ngại cho các tổ chức, cá nhân mở tài khoản khi thông tin giao dịch của họ có khả năng bị ngân hàng thương mại cung cấp cho cơ quan thuế. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, PV kênh InfoTV đã có cuộc trao đổi với Ông Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty luật TNHH SBLaw

Câu hỏi: Vâng xin cảm ơn ông đã nhận lời mời tham gia chương trình của chúng tôi. Thưa ông, từ trước đến nay cơ quan thuế là một trong đối tượng được yêu cầu cung cấp bất cứ thông tin nào về tài khoản ngân hàng. Do vậy, nhìn về khía cạnh luật thì Dự thảo này không sai. Tuy nhiên, theo ông dựa theo tâm lí và quyền lợi của khách hàng thì điều này có hợp lí hay không?

Luật sư trả lời:

Theo Dự án Luật Quản lý thuế, ngân hàng thương mại có trách nhiệm cung cấp nội dung giao dịch qua tài khoản, số dư tài khoản của người nộp thuế trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan quản lý thuế. Về khía cạnh quản lý, quy định này là hợp lý và cần thiết tuy nhiên vẫn cần có thêm cơ chế hướng dẫn cụ thể để tránh nguy cơ mất an toàn bảo mật thông tin của người nộp thuế.

Về phía người nộp thuế là các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác là khách hàng của các Ngân hàng thương mại, việc định kỳ cung cấp thông tin tài khoản, cung cấp thông tin của người nộp thuế theo quy định của dự thảo có phạm vi quá rộng và có thể dẫn tới việc lạm dụng quy định trong quá trình thực thi, không phù hợp với yêu cầu về bảo mật thông tin. Do đó, trường hợp quy định trong dự thảo bị lạm dụng, có khả năng quyền lợi về bảo mật thông tin của khách hàng sẽ không được đảm bảo.

Câu hỏi:: Một điều băn khoăn nữa là, nếu như trong quá trình cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng của khách hàng cho cơ quan thuế mà để lộ thông tin khách hàng thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm: Cơ quan thuế hay ngân hàng? Ý kiến của ông như thế nào ạ?

Luật sư trả lời:

Trường hợp cơ quan thuế có yêu cầu các Ngân hàng thương mại cung cấp thông tin tài khoản của người nộp thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm đảm bảo giữ bí mật thông tin của người nộp thuế (trong đó có thông tin về tài khoản ngân hàng). Điều này cũng phù hợp theo quy định của Điều 14 Luật các tổ chức tín dụng và pháp luật về an toàn thông tin mạng.

Câu hỏi: Thưa ông, để tránh thiệt hại trực tiếp hay gián tiếp tới quyền lợi của người gửi tiền, có nên chăng là các ngành chức năng cần phải đưa ra những điều khoản cụ thể nhằm hạn chế quyền tiếp cận thông tin, và phải có một quy trình, trình tự rõ ràng, nghiêm ngặt để đảo bảo an toàn thông tin của khách hàng hay không?

Luật sư trả lời:

Để tránh việc lạm dụng quy định trong quá trình thực thi, đe dọa đến bảo mật thông tin của người nộp thuế, các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu và ban hành thêm quy định hướng dẫn cụ thể đối với quy định của Dự thảo Luật quản lý thuế trong trường hợp quy định này được đưa vào áp dụng trên thực tiễn. Theo đó những vấn đề cần được quy định cụ thể có thể là: trường hợp nào hoặc căn cứ nào để cơ quan thuế được quyền yêu cầu ngân hàng cung cấp thông tin người nộp thuế, trình tự thủ tục yêu cầu ra sao, phạm vi yêu cầu cung cấp thông tin như thế nào...

Câu hỏi: Nhiều ý kiến cho rằng là cơ quan thế không có quyền trong việc biết rõ số dư tài khoản của khách hàng là bao nhiêu, và bản thân số dư tài khoản ngân hàng không nói lên việc có trốn thuế hay không. Vậy theo ông, cần phải có những giải pháp gì để nhằm minh bạch hơn trong vấn đề cung cấp thông tin giữa ngân hàng và cơ quan thuế?

Luật sư trả lời:

Để đảm bảo tính minh bạch khi thực hiện cơ chế này, khi ngân hàng thực hiện cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan thuế, ngân hàng có nghĩa vụ báo cho khách hàng biết trước được những thông tin nào về tài khoản của họ có thể sẽ được cung cấp cho cơ quan thuế. Theo đó, khách hàng sẽ được biết về việc này và có thể cân nhắc để sử dụng tài khoản đúng đắn. Bên cạnh đó, tôi xin nhấn mạnh lại sự cần thiết phải có sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan nhằm đưa ra một cơ chế hướng dẫn cơ quan thuế và ngân hàng trong việc cung cấp thông tin của khách hàng, nhằm đảm bảo được tính minh bạch trong vấn đề quản lý thuế và tránh các hành vi lạm quyền làm phương hại đến quyền lợi của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức.

Câu hỏi: Cảm ơn ông với những chia sẻ vừa rồi!

0/5 (0 Reviews)

Tư vấn pháp lý

Liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn 24/7

    Bài viết liên quan