(TTV Online) Ngày 01.03.2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 315/QĐ-TTg về thực hiện thí điểm BHNN, trong đó quy định Nhà nước hỗ trợ phí BHNN cho nông dân. Một chính sách ưu việt, hấp dẫn, nhưng đến nay nông dân vẫn chưa mặn mà tham gia BHNN bởi còn quá nhiều vướng mắc, bất cập. Xung quanh vấn đề này, Trang Trại Việt đã có cuộc trò chuyện với luật sư Nguyễn Thanh Hà (ảnh) - Chủ tịch Công ty Luật SBLAW (Hà Nội).
Luật sư Hà cho biết: BHNN là một trong những biện pháp tốt nhất nhằm giảm thiểu thiệt hại cho nông dân khi gặp rủi ro. Ngoài ra, tham gia BHNN còn mang lại sự ổn định tài chính cho nông dân, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao nhận thức cho người nông dân trong sản xuất…Tuy nhiên, kết quả BHNN trong những năm qua chưa được như mong muốn, bởi rủi ro trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn và thường xuyên, doanh nghiệp (DN) bảo hiểm phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ cao nên ít đơn vị tham gia. Trong khi đó, quy định về đối tượng được bảo hiểm chưa phù hợp với nhu cầu thực tế của nông dân ở từng địa phương. Công tác đánh giá rủi ro về mức độ thiệt hại và quy trình để bồi thường thiệt hại khá phức tạp; điều kiện để nông dân, chủ trang trại được hưởng BHNN cũng có nhiều vướng mắc…
Ông có thể cho biết cụ thể hơn về những vướng mắc đó?
Để được tham gia, thanh toán bảo hiểm, hộ nông dân, chủ trang trại phải thỏa mãn điều kiện về quy mô sản xuất, mức độ thiệt hại,… được quy định tại Thông tư 47/2011/TT-BNNPTNT ngày 29.6.2011 của Bộ NNPTNT. Trong quy định này có nhiều bất cập.
Thứ nhất: Điểm a, khoản 4, Điều 5 quy định: Tổng đàn có từ 200 con trở lên đối với gà, vịt thịt và quy mô từ 100 con đối với gà, vịt đẻ thì được bảo hiểm. Với quy mô này thì người nghèo rất khó tham gia, vì họ lấy đâu ra vốn để nuôi hàng trăm con gà, vịt?
Thứ hai: Quy định về mức độ thiệt hại để được thanh toán bảo hiểm quá cao. Tại khoản 5, Điều 3 thì chỉ khi thiên tai, dịch bệnh làm cho năng suất lúa thu hoạch của vùng thấp hơn 75% năng suất bình quân vụ sản xuất trong 3 năm gần nhất; chăn nuôi thiệt hại ở mức 20%; thủy sản nuôi ở mức 30% trở lên (theo giá trị kinh tế) thì mới được bảo hiểm. Tôi cho rằng ngưỡng tỷ lệ thiệt hại được chi trả bảo hiểm như vậy là cao, không hấp dẫn người sản xuất tham gia mua bảo hiểm.
Thứ ba: Theo quy định tại khoản 3, Điều 3 thì chỉ khi nào có quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh công bố dịch thì người sản xuất mới được chi trả bảo hiểm. Tuy nhiên, việc Chủ tịch UBND tỉnh ra quyết định công bố dịch phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp luật. Như vậy, nếu trâu, bò, lợn bị chết mà chưa có quyết định công bố dịch thì người tham gia cũng không được chi trả bảo hiểm.
Được biết, một trong những điều kiện để được thanh toán bảo hiểm là nông dân, chủ trang trại phải thực hiện đúng quy trình sản xuất theo quy định của Bộ NNPTNT, thưa ông?
Về nguyên tắc thì quy định như thế là đúng, bởi lẽ anh thực hiện đúng quy trình theo quy định (ví dụ như tiêm phòng dịch đầy đủ mà vật nuôi vẫn chết) thì anh mới được thanh toán bảo hiểm. Tuy nhiên nông dân không phải ai, lúc nào cũng làm được như thế. Đơn cử, để được BHNN trong chăn nuôi lợn thịt, hộ nông dân, chủ trang trại phải thực hiện một quy trình với gần 20 tiêu chí (quy định tại Phụ lục III ban hành theo Thông tư 47/2011/TT-BNNPTNT). Từ chọn giống, chăm sóc nuôi dưỡng đến quản lý chăn nuôi đều phải thực hiện đúng quy định này. Ví dụ, con giống phải được sản xuất ở những cơ sở có uy tín, an toàn về dịch bệnh; chuồng trại phải đảm bảo khoảng cách an toàn sinh học đối với chăn nuôi tập trung, trang trại; rắc vôi bột hoặc phun hóa chất khử trùng xung quanh chuồng nuôi, khu chăn nuôi 1 lần/tuần khi không có dịch; tiêm phòng đầy đủ các loại vaccine…
Về đối tượng bảo hiểm, theo luật sư, quy định hiện hành đã phù hợp với mong muốn của nông dân, chủ trang trại hay chưa?
Tôi cho rằng đối tượng được bảo hiểm quy định tại Khoản 5, Điều 1, Quyết định số 315/QĐ-TTg còn hẹp, và đôi khi chưa phù hợp với mong muốn của nông dân, chủ trang trại. Ví dụ, theo quy định thì tại Nam Định chỉ được thực hiện bảo hiểm đối với cây lúa. Tuy nhiên ở một số huyện vùng ven biển của Nam Định, cũng có rất nhiều hộ nông dân, chủ trang trại nuôi ngao, tôm. Đây mới chính là đối tượng dễ gặp rủi ro và mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên theo quy định trên thì ngao, tôm lại không thuộc đối tượng bảo hiểm. Cũng như thế ở những địa phương khác, trong nhiều trường hợp cũng có sự “vênh” về đối tượng bảo hiểm với mong muốn của nông dân, chủ trang trại và không sát với thực tế sản xuất của địa phương.
Được biết, vừa qua Bộ Tài chính, Bộ NNPTNT đã đề nghị với Chính phủ không giới hạn địa phương và đối tượng được bảo hiểm, nhằm góp phần tháo gỡ những vướng mắc nêu trên.
Cảm ơn luật sư!