Bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận của Hoa Kỳ (Phần I)

Nội dung bài viết

Là một trong những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ nhưng khái niệm chỉ dẫn địa lý mới chính thức lần đầu tiên[3] được đưa ra trong Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPs). Mặc dù là công ước quốc tế có ảnh hưởng lớn đến bảo hộ chỉ dẫn địa lý trên phạm vi quốc tế nhưng Hiệp định TRIPs không áp đặt một hình thức bảo hộ chung nào cho các quốc gia thành viênmà để chocác quốc gia tự quyết định lựa chọn hình thức bảo hộ đối với chỉ dẫn địa lý.[4]

Xuất phát từ đặc điểm riêng về mặt lịch sử, Hoa Kỳ là một quốc gia trẻ, không có nhiều các chỉ dẫn địa lý nổi tiếng, đặc thù tới mức khó có thể tìm thấy sản phẩm tương tự ở khu vực địa lý khác, vì vậy Hoa Kỳ là một trong những nước không quan tâm lắm, thậm chí không tán thành mức bảo hộ chỉ dẫn địa lý cao[5].Hoa Kỳ cho rằng mức độ bảo hộ chỉ dẫn địa lý cao có thể tạo ra những rào cản thương mại, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của các nhà sản xuất, cản trở nhập khẩu. Chính vì vậy, Hoa Kỳ không tham gia vào Thoả ước Madrid lẫn Thoả ước Lisbon. Trong khuôn khổ thực thi nghĩa vụ pháp lý quốc tế theo Hiệp định TRIPs, Hoa Kỳ đã lựa chọn hình bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua hệ thống pháp luật hiện hành về nhãn hiệu với các sửa đổi và bổ sung cho phù hợp với các quy định tối thiểu của Hiệp định này.

Các sản phẩm đặc sản của Việt Nam có nhiều đặc điểm khá tương đồng với các sản phẩm của Hoa Kỳ: ngoại trừ một số sản phẩm đặc thù như nước mắm, các chỉ dẫn địa lý còn lại của Việt Nam không quá đặc biệt tới mức không thể tìm thấy ở khu vực địa lý khác. Trên thực tế, các sản phẩm mang chỉ dẫn của Hoa Kỳ mặc dù không quá đặc thù nhưng lại khá thành công trong thương mại, vì vậy, nghiên cứu kinh nghiệm bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống bảo hộ nhãn hiệu, đặc biệt là nhãn hiệu chứng nhận sẽ rất hữu ích đối với Việt Nam.

1. Khái niệm nhãn hiệu chứng nhận theo pháp luật Hoa Kỳ

Hệ thống pháp luật về nhãn hiệu của Hoa Kỳ có lịch sử lâu đời với những quy định tương đối đầy đủ, đã được thực thi trong thời gian dài, trong đó Lanham Act và Luật nhãn hiệu Trademark Act 1905 là các đạo luật có vai trò quan trọng nhất. Bên cạnh đó, quy định của Văn phòng quốc gia Hoa Kỳ về rượu, thuốc lá và súng (BATF) có một số điều khoản liên quan đến các chỉ dẫn địa lý cho rượu vang và rượu mạnh. Theo đó, chỉ dẫn địa lý có thể được bảo hộ theo ba cách: bảo hộ dưới dạng nhãn hiêu thông thường, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể, trong đó nhãn hiệu chứng nhận là hình thức pháp lý được xem là phù hợp nhất với chỉ dẫn địa lý.[6]

Khái niệm nhãn hiệu chứng nhận được đưa ra trong Lanham Act như sau“Nhãn hiệu chứng nhận là bất kỳ chữ, tên gọi, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp các yếu tố đó đã được sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong hoạt động thương mại bởi một người không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu, được chủ sở hữu đăng ký nhằm mục đích cho phép người khác sử dụng và nộp đơn đăng ký bảo hộ nhằm chứng nhận rằng hàng hoá và dịch vụ mang nhãn có nguồn gốc khu vực hoặc nguồn gốc khác, có nguyên liệu, cách thức sản xuất, chất lượng, sự chính xác hoặc đặc tính khác của hàng hóa hay dịch vụ của người nào đó hoặc chứng nhận quy trình và cách thức sản xuất hàng hoá và dịch vụ được thực hiện bởi các thành viên của hiệp hội hoặc tổ chức khác” (Lanham Act, chương 15, điều 1127).

Như vậy, về cơ bản nhãn hiệu chứng nhận của Hoa Kỳ tương đồng với cách hiểu nhãn hiệu chứng nhận của các nước. Chủ sở hữu nhãn hiệu sẽ được độc quyền sử dụng nhãn hiệu nếu: (i) chủ sở hữu thực hiện việc quản lý một cách hợp pháp việc sử dụng nhãn hiệu đó cho hàng hoá; (ii) chủ sở hữu không được từ chối chứng nhận hàng hoá đáp ứng tiêu chuẩn chứng nhận; (iii) chủ sở hữu không sử dụng nhãn hiệu cho hàng hoá để đảm bảo tính trung lập; (iv) chủ sở hữu không được sử dụng nhãn hiệu với mục đích nào khác việc chứng nhận nhằm đảm bảo không gây nhầm lẫn cho công chúng về chức năng của nhãn hiệu chứng nhận. Nhãn hiệu chứng nhận được sử dụng cho một hoặc nhiều sản phẩm và một hoặc nhiều nhà sản xuất trong một khu vực cụ thể[7]. Ví dụ như cam Florida, khoai tây Idaho, hành Vidalia, rượu vang Napa Valley và táo bang Washington.

Có ba loại nhãn hiệu chứng nhận:

(i) nhãn hiệu chứng nhận hàng hoá hoặc dịch vụ có nguồn gốc xuất xứ từ một khu vực địa lý nhất định;

(ii) nhãn hiệu chứng nhận hàng hoá và dịch vụ đạt tiêu chuẩn về chất lượng, nguyên liệu sản xuất hay cách thức sản xuất;

(iii) nhãn hiệu chứng nhận cách thức cung cấp dịch vụ hoặc quy trình sản xuất hàng hoá đáp ứng theo tiêu chuẩn nhất định. Trong đó, nhãn hiệu chứng nhận hàng hoá, dịch vụ có nguồn gốc từ khu vực địa lý có nhiều đặc điểm tương đối gần với chỉ dẫn địa lý. Vì vậy, các chỉ dẫn địa lý của các nước thường đăng ký bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu chứng nhận về nguồn gốc tại thị trường Hoa Kỳ như Parmigiano Reggiano, Roquefort, Swiss, Darjeeling…[8]

Một yêu cầu chung đối với nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc xuất xứ là khi đăng ký phải xác định rõ khu vực sản xuất. Ví dụ, nhãn hiệu chứng nhận Parmigiano Reggiano để chỉ loại pho mát “có nguồn gốc từ khu vực Parma Reggio của Italie, bao gồm các vùng Parma, Reggio Emilia, Modena và Mantua bên phải dòng song Po và Bologne, bên trái sông Reno”[9]. Hay Swiss là nhãn hiệu chứng nhận sử dụng cho sô cô la và các sản phẩm làm từ sô cô la được sản xuất tại Thuỵ Sĩ. Tuy nhiên, bên cạnh việc chứng nhận nguồn gốc xuất xứ, nhãn hiệu chứng nhận còn xác nhận chất lượng hoặc đặc tính của sản phẩm. Ví dụ Roquefort là nhãn hiệu chứng nhận cho các sản phẩm pho mát làm duy nhất từ sữa cừu và được lên men tự nhiên trong các hầm của làng Roquefort, quận Aveyron, Pháp”[10].

Các dấu hiệu đăng ký làm nhãn hiệu chứng nhận không giới hạn chỉ ở các tên địa lý. Một tên không chính thức của địa danh, tên viết tắt, thậm chí những dấu hiệu gián tiếp đều có thể được sử dụng như hoặc trong một nhãn hiệu chứng nhận nguồn gốc địa lý. “Idaho”, “Idaho Prefered Idaho, “Idaho Potatoes Grown in Idaho”, “Grown in Idaho” là những ví dụ về nhãn hiệu chứng nhận được đăng ký bảo hộ cho táo và các sản phẩm từ táo được trồng ở vùng Idaho, Hoa Kỳ[11]. Bên cạnh những nhãn hiệu chứng nhận chỉ ra nguồn gốc địa lý của táo, còn có một số nhãn cũng có chứa tên địa lý như “Idaho’s Best” hay “Idaho Naturally”, nhưng những nhãn hiệu này không chỉ ra nguồn gốc địa lý của sản phẩm như các nhãn hiệu nói trên mà chỉ đơn thuần xác nhận loại táo mang nhãn đó đáp ứng yêu cầu về đặc tính, chất lượng sản phẩm nhất định. Các sản phẩm mang nhãn hiệu “Idaho’s Best” có thể trồng ở California hay một nơi khác và chỉ được chế biến ở Idaho nhưng vẫn đáp ứng được một số tiêu chuẩn về chất lượng hay đặc tính mà chủ nhãn hiệu đưa ra. Đây chính là điểm đặc biệt của nhãn hiệu chứng nhận theo pháp luật Hoa Kỳ: sản phẩm không nhất thiết phải sản xuất ở khu vực địa lý đó, sản phẩm vẫn có thể mang nhãn hiệu chứng nhận nếu sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra và chỉ cần một công đoạn sản xuất được thực hiện ở khu vực địa lý đó là đủ. Do đặc điểm của các chỉ dẫn địa lý ở Hoa Kỳ không quá đặc thù và độc đáo tới mức không thể tìm thấy các sản phẩm tương tự ở địa phương khác, do vậy, Hoa Kỳ đã lựa chọn hình thức bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận nhằm đảm bảo việc kiểm soát chất lượng các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý mà không cần có sự can thiệp sâu của Chính phủ.

Như vậy,với hệ thống pháp luật lâu đời và hoàn thiện về nhãn hiệu, được thực thi trong trong một thời gian dài, việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống bảo hộ nhãn hiệu giúp Hoa Kỳ giảm bớt việc thiết lập một hệ thống bảo hộ chỉ dẫn địa lý mới, tồn tại song song với hệ thống nhãn hiệu. Điều này sẽ giúp giảm chi phí và đơn giản hoá thủ tục bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

2. Một số nguyên tắc bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới hình thức nhãn hiệu chứng nhận

Việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý dưới dạng nhãn hiệu chứng nhận của Hoa Kỳ dựa trên một số nguyên tắc sau:

a. Khẳng định quyền tư hữu đối với chỉ dẫn địa lý nhưng dưới sự giám sát của tập thểvà cộng đồng

Nếu như theo quy định của Châu Âu hay Pháp, quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý không thể coi là quyền tư hữu[12], thì pháp luật Hoa Kỳ lại khẳng định việc bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua pháp luật về nhãn hiệu như một quyền tư hữu[13]. Tuy nhiên, quyền tư hữu đối với chỉ dẫn địa lý của Hoa Kỳ có điểm khác biệt ở chỗ nó vẫn đảm bảo được tính tập thể trong việc sử dụng và đầu tư vào việc thương mại hoá các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý.

Thứ nhất, tính tập thể trong bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua nhãn hiệu ở Hoa Kỳ được hiểu là cơ chế cho phép nhà sản xuất tham gia cùng nhau, với cùng mục đích bán được sản phẩm giá cao và mang lại lợi ích kinh tế cho họ. Để đạt được mục tiêu tập thể đó, cần có cơ chế kiểm soát sao cho đảm bảo chất lượng sản phẩm đồng nhất. Đây cũng là quan điểm của các nhà sản xuất chỉ dẫn địa lý ở Châu Âu. Tuy nhiên, nếu như các nhà sản xuất Châu Âu luôn có xu hướng hạn chế sự tham gia của các thành viên, tạo thế độc quyền cho các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý ở thị trường, đối với các nhà sản xuất ở Hoa Kỳ, quan điểm này được tiếp cận theo cả hai hướng. Quản lý tập thể mang lại lợi ích cho các nhà sản xuất và sản phẩm và ngược lại, việc kiểm soát chất lượng các chỉ dẫn địa lý có thể làm nảy sinh yêu cầu quản lý tập thể vì việc kiểm soát chất lượng sản phẩm sẽ làm gia tăng giá trị cho sản phẩm và thu hút sự tham gia của các thành viên vào tổ chức để cũng khai thác lợi thế thương mại của tập thể cũng như của sản phẩm. Điều này thể hiện rõ ràng trong quy định về nhãn hiệu chứng nhận.

Chủ sở hữu nhãn hiệu được quyền tự xác định tiêu chuẩn bảo hộ cho sản phẩm sao cho đáp ứng đồng thời hai mục tiêu: đảm bảo chất lượng sản phẩm đúng tiêu chuẩn đến tay người tiêu dùng và đảm bảo cho các nhà sản xuất trong khu vực có thể sử dụng chỉ dẫn địa lý hiệu quả nhất. Chính vì mục tiêu đó mà việc xác định tiêu chuẩn cho sản phẩm quá khắt khe hoặc không chính xác đều dẫn đến những hậu quả không tốt cho chủ sở hữu.

Nếu tiêu chuẩn xác định quá khắt khe sẽ làm hạn chế sự tham gia của các nhà sản xuất trong khu vực. Hơn nữa, việc quy định quá chặt chẽ cũng có thể làm giảm khả năng sáng tạo của các nhà sản xuất. Chỉ dẫn địa lý của Hoa Kỳ chủ yếu được bảo hộ thông qua cơ chế bảo hộ nhãn hiệu chứng nhận nhằm mục đích khuyến khích sự tham gia vào tổ chức tập thể các nhà sản xuất. Chính sự tham gia đông đảo của các nhà sản xuất trong khu vực sẽ xuất hiện yêu cầu cần kiểm soát chất lượng sản phẩm đảm bảo tuân thủ tiêu chuẩn nhãn hiệu chứng nhận và cũng đồng thời tạo môi trường cạnh tranh giữa chính các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm...


[1]Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp Số 15, tháng 8/2010

[2]Giảng viên Môn Sở hữu trí tuệ và Thương hiệu, Trường ĐH Ngoại thương

[3]Trước khi Hiệp định Tripsra đời,cáckhái niệmliên quan đến chỉ dẫn địa lý như“chỉ dẫn nguồn gốc” và “tên gọi xuất xứ” đã được đưa ratrong một sốcông ước quốc tế như Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ sở hữu công nghiệp và Thoả ước Madrid 1891 về chống chỉ dẫn sai lệch hoặc lừa dối về nguồn gốc hàng hoá,Thoả ước Lisbon 1958 về bảo hộ và đăng ký quốc tế tên gọi xuất xứ hàng hoá.

[4]Bảo hộ chỉ dẫn địa lý thường được các quốc gia thực hiện theo ba cách: xây dựng hệ thống riêng về bảo hộ chỉ dẫn địa lý (sui generic),bảo hộ chỉ dẫn địa lý thông qua pháp luật nhãn hiệu hoặc thông qua pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh

[5]Hoa Kỳ cùng với Argentina, Canada, Chilê, Colombia, Đài Loan, Dominica, Ecuador, El Salvador, Guatemala, Honduras, New Zealand, Panama, Paraguay, Philippine và Australialà các quốc gia không ủng hộ mức bảo hộ chỉ dẫn địa lý cao theo đề xuất của các nước thuộc liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Kenya, Mauritius, Nigeria, Pakistan, the Slovak Republic, Slovenia, Sri Lanka, Switzerland, Thailand,Thổ Nhĩ Kỳvà nhiều quốc gia khác trong khuôn khổ vòng đàm phán Doha. Nguồn: Trang tin của Tổ chức thương mại thế giới WTO: http://www.wto.org/english/news_e/news08_e/trips_6june08_e.htm

[6]Coerper, M.G, The protection of geographical indications in the United States of America, with particular reference to certifications marks, xem tại trang http://www.iprsonline.org/ictsd/docs

[7]Bruce A Babcock & Roxanne Clemens (2004), “Geographical Indications and Property Rights: Protecting Value-Added Agriculture Products”, Matrict briefing paper, Iowa State University, pp3.

[8]Grevers, F ; Topical issues of the protection of geographical indication, WIPO, 1999

[9]Đăng ký nhãn hiệu Hoa Kỳ số 1754410, tra cứu tại Website của Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ: http://www.uspto.gov

[10] Đăng ký nhãn hiệu Hoa Kỳ số 571798, ngày 13/3/1953, sđd

[11]Bernard O’Conor (2003), The Laws of Geographical Indications, Cameron and May, London

[12]Quyết định của Toà phúc thẩm Angers ngày 5/9/1989 và toà thượng thẩm ngày 17/12/1991 và 24/03/1992 liên quan đến nhãn hiệu Chateau de la Roche aux Moines của Pháp, nguồn: Bernard O’Conor (2003), The Laws of Geographical Indications, Cameron and May, London

[13]Rangnekar Dwijen (2003), “Geographic Indications - A Review of Proposals at the TRIPS Council: Extending Article 23 to Products other than Wines and Spirits”, UNCTAD/ICTSD Capacity Building Project on IPR and Subtainable Development, pp.36

5/5 (1 Review)

Bài viết liên quan