TÌM HIỂU VỀ TỘI LỪA DỐI KHÁCH HÀNG

Nội dung bài viết

Luật sư Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty Luật SBLAW trả lời trong Chương trình GIẢI ĐÁP PHÁP LUẬT về Tội lừa dối khách hàng.

Câu hỏi 1: Luật sư có đánh giá như thế nào về mức độ bị xâm hại của người tiêu dùng hiện nay?

Luật sư trả lời:

Hiện nay, thị trường bán lẻ Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ, được đánh giá là một thị trường tiềm năng. Tuy nhiên, quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng lại chưa được bảo đảm, ngày càng bị xâm hại nghiêm trọng, phổ biến, với tính chất phức tạp và đa phần quyền lợi của người tiêu dùng khi mua phải hàng giả đều không được đền bù thỏa đáng.

Quyền của người tiêu dùng bị xâm hại thông qua nhiều loại vi phạm ở mức độ khác nhau như: bán hàng không rõ xuất xứ, nhập nhằng về chất lượng, thiếu thông tin về giá cả, cách sử dụng, đặc điểm kỹ thuật, thiếu thông tin về bảo hành, … Nhiều trường hợp khách hàng khi mua phải hàng hóa không đúng yêu cầu (như trong phóng sự) nhưng vẫn đành chịu thiệt. Mặt hàng vi phạm đa dạng về chủng loại, từ hàng chất lượng thấp đến chất lượng cao, từ hàng tiêu dùng đến nguyên liệu, tư liệu sản xuất. Đặc biệt, các mặt hàng như đồ uống, thuốc lá, tân dược, … đang ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng và sản xuất với mức độ tinh vi, người tiêu dùng rất khó nhận biết. Hàng giả, hàng kém chất lượng, … xuất hiện hầu hết trên các địa bàn như: cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại, chợ, trong cơ quan, doanh nghiệp và thậm chí cả gia đình. Người tiêu dùng đang đứng giữa “ma trận” hàng hóa, dễ mua phải hàng giả.

Qua thực tiễn công tác bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cho thấy các hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng không chỉ xảy ra ở một lĩnh vực mà còn diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và với nhiều hình thức khác nhau. Bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng là trách nhiệm chung của toàn xã hội.

Câu hỏi 2: Theo ông thì nguyên nhân vì sao người tiêu dùng là nhóm đối tượng đông đảo nhất, có các hiệp hội bảo vệ và thậm chí có cả một bộ luật riêng bảo vệ người tiêu dùng nhưng vẫn là đối tượng bị xâm hại như vậy?

Luật sư trả lời:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 thì khái niệm người tiêu dùng được định nghĩa như sau: “1. Là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng cho cá nhân, gia đình, tổ chức…”. Như vậy có thể thấy rằng người tiêu dùng là nhóm đối tượng đông đảo nhất trong xã hội. Mặc dù đã có các hiệp hội bảo vệ và thậm chí có cả Luật riêng bảo vệ người tiêu dùng nhưng người tiêu dùng vẫn là đối tượng bị xâm hại, là do:

Thứ nhất, trong mối quan hệ với nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng luôn ở vị thế yếu, bởi luôn là bên thiếu thông tin, kiến thức liên quan đến sản phẩm hầu như không có, lại bị triệt tiêu khả năng thương lượng đối với tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp.

Thứ hai, là do nhận thức của cộng đồng về sở hữu trí tuệ chưa cao, người tiêu dùng Việt Nam chưa có ý thức đấu tranh chống hàng giả, ngại va chạm và tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật. Đặc biệt, rất nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của sở hữu trí tuệ do vậy họ không đăng ký và xác lập quyền sở hữu cho hàng hóa của mình từ đó tạo điều kiện cho đối tượng làm hàng giả lợi dụng. Khi hàng hóa bị làm giả, các doanh nghiệp chưa chủ động đấu tranh chống hàng giả, thiếu các biện pháp thông báo, tuyên truyền hướng dẫn người tiêu dùng. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn không nhiệt tình với các cơ quan chức năng để xử lý khi bị xâm phạm về sở hữu trí tuệ hàng hóa do mình sản xuất.

Thứ ba, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2011, sự ra đời của Luật là công cụ quan trọng, tạo hành lang pháp lý vững chắc trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, để các quy định của Luật đi vào cuộc sống, cũng như các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người tiêu dùng và toàn xã hội hiểu và thực hiện nghiêm các quy định của Luật thì còn rất khó khăn.

Câu hỏi 3: Vậy với cơ chế bảo hộ nghiêm khắc nhất, răn đe nhiều nhất là luật hình sự thì hiện nay có những tội nào thuộc nhóm tội xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng thưa ông?

Luật sư trả lời:

Bộ luật Hình sự năm 1999 (có sửa đổi, bổ sung năm 2009) bảo vệ người tiêu dùng bằng cách xác định những hành vi xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng là tội phạm và các hình thức trách nhiệm pháp lý hình sự có thể được áp dụng đối với người phạm tội. Bộ luật Hình sự hiện hành không có một Chương riêng quy định hành vi phạm tội xâm phạm đến người tiêu dùng nhưng có 08 tội thuộc nhóm tội xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng nằm ở 2 Chương: Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVI) và Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XIX), cụ thể:

  1. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156).
  2. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157).
  3. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158).
  4. Tội đầu cơ (Điều 160).
  5. Tội lừa dối khách hàng (Điều 162).
  6. Tội vi phạm các quy định về cung ứng điện (Điều 177).
  7. Tội vi phạm các quy định về khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác (Điều 242).
  8. Tội vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm (Điều 244).

Đặc điểm chung của các tội nói trên là đều xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, thông qua đó xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Đối tượng của các tội này là hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng. Mục đích thu lợi bất chính không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng đó thường là ý chí chủ quan của người phạm tội. Phần lớn các hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng bị coi là tội phạm khi gây hậu quả ở mức độ nghiêm trọng hoặc người thực hiện hành vi có nhân thân xấu, đã từng bị xử lý hành chính hoặc đã từng bị kết án, trừ tội quy định tại Điều 157 BLHS không cần gây hậu quả hoặc chủ thể là người có nhân thân xấu, vì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đã đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của con người.

Câu hỏi 4: Tội lừa dối khách hàng là một trong những hành vi khá phổ biến hiện nay, xin luật sư cho biết rõ hơn về tội danh này cũng như chế tài xử lý?

Luật sư trả lời:

Lừa dối khách hàng là hiện tượng khá phổ biến trong xã hội hiện nay, doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh nào cũng muốn thu lợi nhuận cao từ việc kinh doanh nên dẫn tới hiện tượng lừa dối khách hàng. Tội lừa dối khách hàng được quy định tại Điều 162 BLHS:

“1. Người nào trong việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

  1. Phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
  2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

Theo đó, các yếu tố cấu thành Tội lừa dối khách hàng là:

  • Mặt khách thể của tội phạm: Tội lừa dối khách hàng xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, uy tín của doanh nghiệp.
  • Mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội lừa dối khách hàng được thể hiện ở hành vi gian dối trong bán hàng nhằm thu lợi bất chính như cân, đo, đong, đếm; hàng chất lượng kém nhưng bán hàng với giá theo hàng chất lượng tốt, cố tình thay thế phụ tùng có giá trị thấp; ... làm cho khách hàng phải thanh toán số lượng nhiều hơn giá trị hàng hóa thực tế.

Hành vi khách quan của tội này là người bán hàng trong quan hệ giao dịch mua bán tất cả các thành phần kinh tế.

Hành vi nói trên bị coi là tội phạm khi đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

  • Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. người phạm tội biết rõ hành vi lừa dối khách hàng của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì vụ lợi vẫn cố tình thực hiên tội phạm. Động cơ phạm tội là vụ lợi và nhằm thu lợi bất chính.

  • Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của tội này là người từ đủ 16 tuổi trở lên có năng lực TNHS. Đó là những người có những quyền hạn nhất định như nhân viên bán hàng, người bán hàng, kinh doanh tự do.

  • Hình phạt:

Điều 162 quy định 02 khung hình phạt:

  • Khung cơ bản có mức hình phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
  • Mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm được áp dụng cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung tăng nặng sau:

+ Phạm tội nhiều lần;

+ Thu lợi bất chính lớn.

Hình phạt bổ sung được quy định cho tội này là phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 30 triệu đồng.

Câu hỏi 5: Vụ gian lận xăng dầu Trần Khát Chân và Yên Viên là một trong số rất ít những vụ việc mà hành vi lừa dối khách hàng bị truy tố trách nhiệm hình sự. Vì sao lại có thực trạng này thưa luật sư?

Luật sư trả lời:

Mặc dù hành vi lừa dối khách hàng xảy ra khá phổ biến nhưng thực tế cho thấy hầu như hành vi này rất ít khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo tôi, nguyên nhân của thực trạng này là do:

Thứ nhất, hiện nay đối tượng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng không chỉ có cá nhân mà còn có pháp nhân, nhưng pháp luật hình sự ở Việt Nam chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự cá nhân mà không truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân là một hạn chế lớn trong xử lý hành vi xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng nói chung và hành vi lừa dối khách hàng nói riêng bằng pháp luật hình sự.

Thứ hai, mặc dù trong BLHS đã quy định Tội lừa dối khách hàng tại Điều 162 nhưng thực tế hầu như không có vụ việc nào bị xử lý hình sự nếu chưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng, trong khi hậu quả của của việc sử dụng hàng kém chất lượng thường diễn ra từ từ, trong một thời gian tương đối dài; sự suy giảm sức khỏe của người tiêu dùng diễn ra từ từ và đến khi hậu quả thiệt hại xảy ra thì rất khó để quy kết nguyên nhân.

Thứ ba, khi bị lừa dối khách hàng vẫn ngại va chạm và tiếp xúc với cơ quan bảo vệ pháp luật.

Thứ tư, lừa dối khách hàng là một trong những hành vi khá phổ biến hiện nay. BLHS quy định hành vi khách quan của tội này là cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác trong quá trình mua, bán hàng hóa. Trong khi để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng đối với người tiêu dùng thì không chỉ có hàng hóa mà còn có các loại hình dịch vụ. Dịch vụ cũng là một loại đối tượng của tội phạm xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, nhưng trong BLHS, đối tượng của tội phạm xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng là dịch vụ chưa được đề cập, dẫn đến tình trạng rất nhiều hành vi lừa dối khách hàng, cung cấp dịch vụ kém chất lượng, xâm hại nghiêm trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng nhưng lại không phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự do chưa có quy định.

Câu hỏi 6: Đã có nhiều ý kiến cho rằng, hành vi lừa dối khách hàng và hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét về bản chất chỉ là một, nên không cần thiết phải quy định tội lừa dối khách hàng trong Bộ luật hình sự. Quan điểm của ông về vấn đề này?

Luật sư trả lời:

Theo tôi, vẫn nên quy định Tội lừa dối khách hàng trong BLHS nhưng thiết nghĩ phải quy định trong một Chương riêng về các tội xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng.

Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy định như sau:

  • Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139): “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm …”.
  • Tội lừa dối khách hàng (Điều 162): “1. Người nào trong việc mua, bán mà cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
  1. Phạm tội nhiều lần hoặc thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
  2. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lừa dối khách hàng có một số điểm khác nhau như sau:

Thứ nhất, khách thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu tài sản của người khác, còn khách thể của Tội lừa dối khách hàng là trật tự mua bán và quyền lợi của người tiêu dùng.

Thứ hai, chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào, còn chủ thể của Tội lừa dối khách hàng phải là người mua, bán hàng.

Thứ ba, hành vi trong yếu tố khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là dùng thủ đoạn gian dối làm cho người có tài sản tin tưởng vào sự gian dối mà trao tài sản cho người phạm tội. Hành vi trong yếu tố khách quan của tội lừa dối khách hàng tuy có thủ đoạn gian dối nhưng gian dối trong các lĩnh vực mua, bán bằng thủ đoạn cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo mặt hàng để lấy tiền của khách hàng.

Thứ tư, về điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự, Tội lừa đảo quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên, còn Tội lừa dối khách hàng không quy đinh đinh lượng giá trị tài sản chiếm đoạt được bằng thủ đoạn gian dối trong mua, bán.

Thứ năm, hình phạt của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định nặng hơn nhiều so với Tội lừa dối khách hàng. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình là hình phạt cao nhất; còn Tội lừa dối khách hàng có hình phạt tối đa là 7 năm.

Như vậy, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có tính chất và mức độ nguy hiểm nhiều hơn so với Tội lừa dối khách hàng.

Câu hỏi 7: Hiện nay, cùng với những thay đổi phương thức, hoạt động kinh doanh thương mại thì các thủ đoạn lừa dối khách hàng cũng ngày càng đa dạng hơn. Vậy theo luật sư thì để luật này đạt hiệu quả cao hơn trong thực tiễn thì nó cần sửa đổi và bổ sung những gì?

Luật sư trả lời:

Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập quốc tế, các thủ đoạn lừa dối khách hàng cũng ngày càng đa dạng, tinh vi hơn thì quy định của BLHS cũng cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để đạt được hiệu quả cao hơn trong cuộc sống. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, dành riêng một Chương trong BLHS quy định về các tội xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng.

Thứ hai, cần bổ sung theo hướng ngoài các loại hàng hóa thông thường, phải đưa dịch vụ vào đối tượng xâm hại của tội lừa dối khách hàng mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm này trong tình hình mới.

Thứ ba, trong điều kiện ở nước ta hiện nay, do mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp với tâm lý hưởng thụ, lối sống thực dụng, tìm kiếm lợi nhuận là trên hết đã khiến cho không ít doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vi phạm pháp luật. Nhiều hành vi vi phạm pháp luật có tính chất và mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội do các pháp nhân thực hiện, trong đó có các hành vi lừa dối khách hàng; do vậy, thực tiễn đã đặt ra vấn đề về trách nhiệm hình sự của pháp nhân.

Thứ tư, hình phạt đối với tội lừa dối khách hàng chưa đủ nghiêm khắc để có thể đạt được mục đích trừng trị riêng và phòng ngừa chung. Do đó, cần tăng nặng chế tài hình sự đối với tội này.

Câu hỏi 8: Cuối cùng thưa luật sư, bản thân người dân là những người tiêu dùng cũng nên cần chú ý những gì để bảo vệ quyền lợi khi mua hàng và sử dụng các dịch vụ?

Luật sư trả lời:

Để bảo vệ quyền lợi của mình khi mua hàng và sử dụng các dịch vụ, người tiêu dùng nên chú ý những điểm sau:

Điều đầu tiên người tiêu dùng cần lưu ý đó chính là lựa chọn đối tác giao dịch, kiểm tra thông tin liên quan. Cụ thể:

  • Xác định uy tín của đối tác giao dịch;
  • Yêu cầu đối tác phải cung cấp cho bạn đầy đủ thông tin về doanh nghiệp và hàng hóa;
  • Yêu cầu đối tác phải cung cấp thông tin rõ ràng cho bạn về các vấn đề phát sinh và cách xử lý khi tiến hành giao dịch, đặc biệt là các vấn đề như bảo hành, trả hàng, hoàn tiền;
  • Yêu cầu đối tác phải cho bạn thấy đã xây dựng và áp dụng một cơ chế bảo đảm thông tin cá nhân cho người tiêu dùng.

Thứ hai, người tiêu dùng phải hiểu rõ về hàng hóa, dịch vụ và giao dịch: trước khi mua, người tiêu dùng cần hiểu rõ về hàng hóa, dịch vụ và giao dịch, đặc biệt là phải đọc và hiểu rõ về các điều kiện và điều khoản để thực sự hiểu được mình đang mua một hàng hóa, dịch vụ mà tại đó không có sự giấu giếm thông tin về giá cả, chất lượng hay kèm theo những sự hạn chế nào đó.

Thứ ba, người tiêu dùng nên kiểm tra và so sánh: nếu người tiêu dùng nghi ngờ hoặc phân vân về bất kỳ điều gì, đừng ngần ngại kiểm tra, so sánh.

Thứ tư, người tiêu dùng nên lưu giữ bằng chứng giao dịch: giữ lại bản copy của tất cả các loại giấy tờ, bao gồm bản ghi điện tử của việc chào hàng, tài liệu quảng cáo, hợp đồng, email, hóa đơn chứng từ và tất cả các tài liệu khác ghi nhận lại giao dịch giữ bạn và tổ chức, cá nhân kinh doanh. Trong trường hợp tài liệu không thể lưu giữ dưới dạng bản cứng, hãy lưu bản mềm hoặc bản chụp các bằng chứng giao dịch. Các tài liệu này sẽ là bằng chứng, chứng cứ để bảo đảm quyền lợi cũng như để giải quyết các tranh chấp giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh sau này.

Khi phát hiện một hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, người tiêu dùng có thể có nhiều cách lựa chọn khác nhau (Điều 30 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng): người tiêu dùng có thể liên hệ trực tiếp với tổ chức, cá nhân kinh doanh để yêu cầu được giải quyết theo phương thức thương lượng; nhờ một tổ chức, cá nhân thứ ba (các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, các công ty, văn phòng luật hoặc bất kỳ một tổ chức cá nhân nào khác đủ năng lực); sử dụng phương thức trọng tài (nếu phương thức này được thỏa thuận trước đó khi xác lập giao dịch); khởi kiện trực tiếp tại Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền.

0/5 (0 Reviews)

Tư vấn pháp lý

Liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn 24/7

    Bài viết liên quan